Mua bảo hiểm du lịch Gruzia và những điều nên biết về Gruzia

Gruzia (tiếng Gruzia: საქართველო, chuyển tự thành Sakartvelo, tiếng Việt đọc là Gru-di-a[1]) là một quốc gia Âu Á tại vùng Kavkaz phía bờ đông biển Đen. Nước này có biên giới phía bắc giáp với Nga, phía nam với Thổ Nhĩ Kỳ vàArmenia, phía đông với Azerbaijan. Đây là một quốc gia liên lục địa, nằm tại điểm nối Đông Âu và Tây Á.[2] đầu Thời đồ đá. Trong thời cổ điển các quốc gia giai đoạn sớm được coi là tiền thân dẫn tới sự thành lập nhà nước Gruzia cũng như văn hoá và bản sắc quốc gia nước này là Colchis và Iberia đã nổi lên. Kitô giáo du nhập từ thế kỷ I và đóng một vai trò quan trọng trong nền văn hóa quốc gia. Gruzia được thống nhất 2 miền vào thế kỉ 11 và thế kỉ tiếp sau đó bắt đầu thời kì vàng son trong lịch sử đất nước. Gruzia đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và suy tàn cho tới khi bị chia thành nhiều thực thể chính trị nhỏ trong thế kỷ 16. Đế quốc Nga đã dần dần chiếm các vùng đất của Gruzia từ năm 1801 tới 1866. Một nhà nước Cộng hoà Dân chủ Gruzia xuất hiện và tồn tại ngắn ngủi sau Cách mạng Nga 1917 (1918-1921) – sụp đổ sau cuộc xâm lược của những người Bolshevik. Gruzia bị sáp nhập vào Liên bang Xô viết năm 1922. Gruzia giành lại độc lập từ Liên xô năm 1991 và, sau một giai đoạn nội chiến và khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, tới cuối thập niên 1990 tình hình Gruzia hầu như đã ổn định. Cuộc Cách mạng hồng không đổ máu năm 2003 đã thiết lập một chính phủ cải cách ủng hộphương Tây và đang có kế hoạch gia nhập NATO cũng như nỗ lực đưa các vùng đất chủ trương ly khai trở lại dưới quyền kiểm soát của Gruzia. Những nỗ lực đó đã làm xói mòn quan hệ với Nga, một phần vì sự hiện diện hiện tại của quân đội Nga. Tới năm 2007, hầu hết các lực lượng vũ trang Nga đã rút đi, căn cứ cuối cùng của Nga tại Batumi dự kiến sẽ rút năm 2008.[3] Địa hình Gruzia đa dạng từ kiểu núi cao tại dãy núi Kavkaz tới cận nhiệt đới dọc bờ Biển Đen, khiến nước này trở thành một địa điểm hấp dẫn du lịch. Nông nghiệp—đặc biệt là truyền thống sản xuất rượu – đã xuất hiện từ thời tiền sử, và vẫn chiếm một phần quan trọng trong nền quốc gia. Những phát triển kinh tế gần đây của đất nước này đã ngang tầm phát triển chung của các quốc gia vùng Âu Á.

Gruzia là một quốc gia đại diện dân chủ, được tổ chức như một nhà nước cộng hoà bán tổng thống nhất thể. Gruzia hiện là một thành viên của Liên hiệp quốc, Hội đồng Châu Âu, Cộng đồng các quốc gia độc lập, Tổ chức Thương mại Thế giới và Tổ chức Hợp tác Kinh tế Biển Đen, và đang xin gia nhập Liên minh Châu Âu và NATO.

Từ nguyên

Người Hy Lạp cổ đại (Strabo, Herodotus, Plutarch, Homer, vân vân) và người La Mã (Titus Livius, Cornelius Tacitus, vân vân) gọi những người phía đông Gruzia thời kỳ đầu là người Iberia (Iberoi trong một số văn bản Hy Lạp) và tây Gruzia là người Colchia.[4]. Người Gruzia tự gọi mình là Kartvelebi (ქართველები), vùng đất của họ là Sakartvelo (საქართველო), và ngôn ngữ là Kartuli (ქართული). Theo truyền thuyết tổ Lãnh thổ Gruzia hiện đại ngày nay từng liên tục có người sinh sống từ tiên của người Kartvelian là Kartlos, cháu trai của của Japheth trong Kinh thánh. Thuật ngữ Gruzia (Georgia) và người Gruzia (Georgian) đã xuất hiện tại Châu Âu trong nhiều cuốn biên niên sử Trung Cổ.[5] Cái tên này từng bị nhầm lẫn cho là xuất phát từ vị thánh bảo trợ, Thánh George.[6][7] Tại Ba Tư cổ đại những vùng đất phía đông Gruzia được gọi là vrkan và những người dân sống tại đó vrk (không rõ nguồn gốc), đây là nguyên gốc của thuật ngữ Armenia cổ virk của Kartli. Trong Tiếng Ba Tư mới thuật ngữ được chuyển thành Gurğān (Gurgjan), hay “người Gurğ”, dẫn tới cái tên Georgian trong các ngôn ngữ Turkic và Slavơ, và có thể cả các ngôn ngữ Châu Âu cũng như (có lẽ thông qua tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Gürcü (“Gurdju”) /Gürcistan).[8][9] Một số người cũng tin rằng Gruzia được người Hy Lạp đặt tên theo các nguồn tài nguyên nông nghiệp tại đây, bởi “Georgia” (γεωργία) có nghĩa “đồng áng” trong tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên, nguồn gốc thực của cái tên Gruzia vẫn đang bị tranh cãi.[10]

Lịch sử

Gruzia thời cổ đại Hai vương quốc Gruzia thời cuối cổ đại, được người Hy Lạp cổ đại và La Mã gọi là Iberia ở phía đông và Colchis ở phía tây. Trong Thần thoại Hy Lạp, Colchis là nơi Jason và Argonauts tìm thấy Bộ lông Cừu vàng trong câu truyện sử thi về Apollonius Rhodius’ Argonautica. Sự xuất hiện củaBộ lông Cừu vàng trong thần thoại có thể xuất phát từ việc người dân địa phương dùng những bộ lông cừu để sàng bụi vàng từ lòng sông. Được những người dân bản xứ gọi là Egrisi hay Lazica, Colchis thường phải chứng kiến những trận đánh giữa hai cường quốc đối thủ là Ba Tư và Đế chế Byzantine, cả hai đều liên tục tìm cách chinh phục Tây Gruzia. Vì thế, các Vương quốc đó đã tan rã thành nhiều vùng phong kiến từ đầu Thời Trung Cổ. Điều này giúp người Ả Rập có cơ hội thuận lợi chinh phục Gruzia ở thế kỷ thứ 7. Các vùng nổi dậy đã được giải phóng và thống nhất thành một Vương quốc Gruzia thống nhất hồi đầu thế kỷ 11. Bắt đầu từ thế kỷ 12, phạm vi cai trị của Gruzia đã trải dài trên một vùng quan trọng phía nam Kavkaz, gồm cả các vùng phía đông bắc và hầu hết toàn bộ bờ biển phía bắc hiện là Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 337 Công nguyên, vua Mirian II tuyên bố đạo Kitô là quốc giáo, dẫn đến một sự thúc đẩy lớn trong sự phát triển văn học, nghệ thuật và cuối cùng là một nhân tố quan trọng trong việc hình thành quốc gia Gruzia thống nhất sau này.[12] Việc chấp nhận Kitô giáo đã gắn kết đất nước với Đế chế Byzantine bên cạnh, nơi có sức ảnh hưởng lớn đến Gruzia trong gần 1 thiên niên kỉ, nhưng đồng thời cũng xác định nên căn tính văn hóa của quốc gia cho tới hiện tại.[13] 

Gruzia thời Trung Cổ

Vương quốc Gruzia phát triển cực thịnh trong thế kỷ 12 và đầu thế kỷ 13. Giai đoạn này được nhiều người gọi bằng thuật ngữ Thời kỳ Vàng son của Gruzia hayGruzia Phục hưng. Tuy nhiên, sự hồi sinh của Vương quốc khá ngắn ngủi, và Vương quốc cuối cùng người Mông Cổ chinh phục năm 1236. Sau đó, nhiều vị thủ lĩnh địa phương đã tình cách giành lại độc lập khỏi chính quyền trung ương Gruzia, cho tới khi Vương quốc tan rã hoàn toàn ở thế kỷ 15. Các vương quốc láng giềng lợi dụng tình hình này và từ thể kỷ 16, Đế chế Ba Tư và Đế chế Ottoman đã chinh phục vùng phía đông và phía tây Gruzia. Những vị thủ lĩnh cai quản các vùng vẫn còn được tự trị một phần đã tổ chức các cuộc nổi dậy vào nhiều thời điểm. Cuộc xâm lược sau đó của người Ba Tư và người Thổ Nhĩ Kỳ càng làm các vương quốc và các vùng địa phương này suy yếu thêm. Do hậu quả của những cuộc chiến tranh với các quốc gia láng giềng, ở một thời điểm dân số Gruzia chỉ còn 250.000 người.

Trong Đế chế Nga

Năm 1783 Nga và Vương quốc đông Gruzia của Kartli-Kakheti ký kết Hiệp ước Georgievsk, theo đó Kartli-Kakheti nhận được sự bảo hộ của người Nga. Tuy nhiên, hiệp ước này không giúp Tbilisi thoát được số phận bị người Ba Tư cướp phá năm 1795. Ngày 22 tháng 12 năm 1800, Sa Hoàng Paul I của Nga, trước cái được cho là yêu cầu của Vua Gruzia Giorgi XII, đã ký Tuyên bố sáp nhập Gruzia (Kartli-Kakheti) vào trong Đế chế Nga. Ngày 8 tháng 1 năm 1801 Sa hoàng Paul I nước Nga ký một nghị định về việc sáp nhập Gruzia (Kartli-Kakheti) vào trong Đế chế Nga[14][15] điều này đã được Sa hoàng Alexander I khẳng định ngày 12 tháng 12 năm 1801.[16][17] Phái bộ Gruzia tại Sankt-Peterburg đã phản ứng với một bản lưu ý đệ trình lên Phó thủ tướng Nga Hoàng tử Kurakin.[18] Tháng 5 năm 1801, Tướng Nga Carl Heinrich Knorring hạ bệ hoàng tử kế vị Gruzia David Batonishvili và thành lập một chính phủ do Tướng Ivan Petrovich Lasarev lãnh đạo.[19] Giới quý tộc Gruzia không chấp nhận nghị định cho tới tận tháng 4 năm 1802 khi Tướng Knorring bao vây họ tại Thánh đường Tbilisi Sioni và buộc họ đưa ra lời tuyên thệ trung thành với Hoàng gia Đế quốc Nga. Những người phản đối bị bắt giữ ngay lập tức.[20] Mùa hè năm 1805, quân đội Nga tại Sông Askerani gần Zagam đánh bại quân Ba Tư cứu Tbilisi khỏi bị chinh phục. Năm 1810, sau một cuộc chiến ngắn,[21] tây Gruzia vương quốc Imereti bị Sa hoàng Aleksandr I của Nga sáp nhập. Vị vua Imeretian cuối cùng và người cai quảnBagrationi Gruzia cuối cùng Solomon II chết khi đang bị đày ải năm 1815. Từ năm 1803 tới 1878, sau nhiều cuộc chiến của Nga chống lại Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, nhiều vùng lãnh thổ đã được sáp nhập vào Gruzia. Những vùng đó (Batumi, Akhaltsikhe, Poti, và Abkhazia) hiện chiếm một phần lớn lãnh thổ Gruzia. Công quốc Guria bị xóa bỏ năm 1828, và công quốc Samegrelo (Mingrelia) chịu số phận tương tự năm 1857. Vùng Svaneti dần bị sáp nhập trong giai đoạn 1857–59. Giai đoạn độc lập ngắn và thời kỳ Xô viết Sau cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, Gruzia tuyên bố độc lập ngày 26 tháng 5 năm 1918 trong bối cảnh cuộc nội chiến Nga đang diễn ra. Cuộc bầu cử nghị viện kết thúc với thắng lợi của Đảng Dân chủ Xã hội Gruzia, được coi là một đảng Menshevik, và lãnh đạo đảng này, Noe Zhordania, lên nắm quyền thủ tướng. Năm 1918 một cuộc chiến tranh giữa Gruzia–Armenia bùng nổ tại các tỉnh của Gruzia có đa số người Armenia sinh sống vì sự can thiệp của Anh. Trong giai đoạn 1918–19 tướng Gruzia Giorgi Mazniashvili đã chỉ huy một cuộc tấn công chống lại quân Bạch Vệ do Moiseev và Denikin chỉ huy để giành chủ quyền bờ biển Đen từ Tuapse tới Sochivà Adler cho nước Gruzia độc lập. Tuy nhiên, nền độc lập này không kéo dài. Tháng 2 năm 1921 Gruzia bị Hồng quân tấn công. Quân đội Gruzia thua trận và chính phủ Dân chủ Xã hội phải bỏ chạy khỏi đất nước. Ngày 25 tháng 2 năm 1921 Hồng quân tiến vào thủ đô Tbilisi và lập nên một chính phủ cộng sản do một thành viên Bolshevik Gruzia là Filipp Makharadze lãnh đạo, nhưng quyền lãnh đạo của Xô viết chỉ được thiết lập một cách chắc chắn sau khi cuộc nổi dậy năm 1924 bị trấn áp. Gruzia bị sáp nhập vào nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ngoại Kavkaz gồm Gruzia, Armenia và Azerbaijan. Nước cộng hòa này giải tán năm 1936 và Gruzia trở thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Gruzia. Đảng viên cộng sản cấp tiến người Gruzia Ioseb Jughashvili (tức Stalin, có nghĩa là “thép” (сталь) trong tiếng Nga) là gương mặt nổi bật trong phái Bolshevik Nga, phe lên nắm quyền tại Nga sau Cách mạng tháng 10 năm 1917. Stalin đã trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết. Từ năm 1941 tới 1945, trong Thế chiến II, tới 700.000 người Gruzia đã chiến đấu trong lực lượng Hồng quân chống lại Phát xít Đức. (Một số công dân Gruzia cũngtham gia chiến đấu trong quân đội Đức). Khoảng 350.000 người Gruzia đã thiệt mạng trong những trận đánh tại Mặt trận phía đông. Cũng trong giai đoạn này người Chechen, Ingush, Karachay và người Balkaria từ vùng Bắc Kavkaz, bị trục xuất tới Siberi vì cái gọi là cộng tác với Phát xít. Với việc các nước cộng hòa bên trong bị bãi bỏ, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Gruzia đã được công nhận một số vùng lãnh thổ, cho tới năm 1957. Phong trào bất đồng và tái lập quốc gia Gruzia bắt đầu phát sinh trong dân chúng

trong thập niên 1960.[22] Trong số những nhân vật bất đồng Gruzia, một trong những nhà

hoạt động đáng chú ý nhất là Merab Kostava và Zviad Gamsakhurdia. Sự bất đồng và các

nhà hoạt động thường bị chính quyền Xô viết thẳng tay trấn áp. Tất cả các thành viên thuộc

phong trào bất đồng Gruzia đều bị chính quyền Xô viết bỏ tù.[23]

Eduard Shevardnadze người Gruzia, bộ trưởng ngoại giao Liên Xô, từng là một trong

những kiến trúc sư của các cuộc cải cách Perestroika cuối thập niên 1980. Trong giai đoạn

này, Gruzia đã phát triển một hệ thống đa đảng mạnh mẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự độc

lập sau này. Đất nước này có cuộc bầu cử nghị viện dân chủ, đa đảng phái đầu tiên trong Liên

bang Xô viết ngày 28 tháng 10 năm 1990. Từ tháng 11 năm 1990 tới tháng 3 năm 1991, một

trong những lãnh đạo Mặt trận Giải phóng Quốc gia, tiến sĩ Zviad Gamsakhurdia, là Chủ

tịch Hội đồng Tối cao Cộng hòa Gruzia (nghị viện Gruzia).

Độc lập thời hậu Xô viết

Ngày 9 tháng 4 năm 1989, một cuộc tuần hành hòa bình tại thủ đô Tbilisi của Gruzia

đã kết thúc bằng một cuộc thảm sát với nhiều người bị quân đội Xô viết giết hại. Vụ việc này

đã làm dấy lên một phong trào chống Xô viết rộng lớn, tuy nhiên nhanh chóng bị đập tan,

bởi những cuộc cạnh tranh của các phe nhóm chính trị bên trong. Trước cuộc bầu cử quốc

hội tháng 10 năm 1990, Umaghiesi Sabcho (Hội đồng tối cao) — cuộc bầu cử đầu tiên tại

Liên bang Xô viết trên cơ sở đa đảng phái chính thức — bối cảnh chính trị một lần nữa lại

như cũ. Tuy nhiều nhóm cấp tiến tẩy chay cuộc bầu cử và triệu tập một hội đồng thay thế

(Đại hội quốc gia), một phần của phe đối lập chống cộng thống nhất lại trong Bàn tròn Tự

do Gruzia (RT-FG) với những cá nhân đối lập như Merab Kostava và Zviad Gamsakhurdia.

Gamsakhurdia đã thắng cử với số phiếu cách biệt, 155 trên tổng số 250 ghế nghị viện, theo

đó Đảng cộng sản (CP) chỉ nhận được 64 ghế. Tất cả các đảng khác đều không giành đủ 5%

số phiếu và vì thế chỉ được trao một số ghế tại đại diện khu vực bầu cử.

Ngày 9 tháng 4 năm 1991, một thời gian ngắn trước khi Liên bang Xô viết tan rã,

Gruzia tuyên bố độc lập. Ngày 26 tháng 5 năm 1991, Zviad Gamsakhurdia được bầu làm

tổng thống đầu tiên của Gruzia. Tuy nhiên Gamsakhurdia nhanh chóng bị hạ bệ sau một

cuộc đảo chính đẫm máu, từ ngày 22 tháng 12 năm 1991 tới ngày 6 tháng 1 năm 1992. Cuộc

đảo chính bị điều xúi giục bởi một nhóm Vệ binh quốc gia và một tổ chức bán quân sự được

gọi là “Mkhedrioni”. Đất nước rơi vào một cuộcnội chiến đau đớn và chỉ kết thúc vào năm

1995. Eduard Shevardnadze quay trở lại Gruzia năm 1992 và gia nhập giới lãnh đạo đảo

chính — Kitovani và Ioseliani — lãnh đạo một chế độ tam đầu được gọi là “Hội đồng Nhà

Năm 1995, Shevardnadze được chính thức bầu làm tổng thống Gruzia, và tái đắc cử

năm 2000. Cùng lúc ấy, hai vùng thuộc Gruzia, Abkhazia và Nam Ossetia, nhanh chóng bị

cuốn vào những cuộc tranh giành với những kẻ ly khai địa phương dẫn tới những cuộc chiến

tranh và tình trạng bạo lực lan rộng giữa các sắc tộc. Được Nga ủng hộ, Abkhazia và Nam

Ossetia trên thực tế đã giành được và duy trì nền độc lập khỏi Gruzia. Hơn 250.000 người

Gruzia đã bị thanh lọc sắc tộc khỏi Abkhazia bởi những kẻ ly khai Abkhaz và những quân

lính tình nguyện Bắc Kavkaz, (gồm cả người Chechens) năm 1992-1993. Hơn 25.000 người

Gruzia cũng đã bị trục xuất khỏiTskhinvali, và nhiều gia đình Ossetian bị buộc phải dời bỏ

nhà cửa tại vùng Borjomi và chuyển tới Nga.

Năm 2003 Shevardnadze bị hạ bệ sau cuộc Cách mạng Hồng, sau khi phe đối lập

Gruzia và các giám viên quốc tế cho rằng cuộc bầu cử nghị viện ngày 2 tháng 11 đã bị gian

lận.[24] Cuộc cách mạng do Mikheil Saakashvili, Zurab Zhvania và Nino Burjanadze, những

thành viên cũ trong đảng cầm quyền của Shavarnadze lãnh đạo. Mikheil Saakashvili được

bầu làm Tổng thống Gruzia năm 2004.

Sau cuộc Cách mạng hồng, một loạt những biện pháp cải cách đã được đưa ra nhằm

tăng cường sức mạnh quân sự và kinh tế của đất nước. Những nỗ lực của chính phủ mới

nhằm tái xác nhận chủ quyền của Gruzia tại nước cộng hoà Ajaria vùng tây nam đã gây ra

một cuộc khủng hoảng đầu năm 2004. Thắng lợi tại Ajaria đã khuyến khích Saakashvili tăng

cường thêm nữa những nỗ lực của mình trong việc tìm kiếm một đột phá tại Nam Ossetia,

nhưng không mang lại thành công.

Tháng 8 năm 2008, quân đội Gruzia tấn công vào Nam Ossetia để tái chiếm lại tỉnh

này khỏi tay quân ly khai. Ngày hôm sau, Quân đội Nga đã tấn công đánh bật quân đội

Gruzia ra khỏi Nam Ossetia và tiến vào Gruzia. Hai bên đều đổ lỗi cho bên kia và cáo buộc

phía kia tấn công thường dân.

Chính phủ và chính trị

Thể chế chính trị Cộng hoà Tổng thống. Cơ quan lập pháp gồm: Quốc hội gồm

150 ghế. Tại bầu cử Quốc hội 21 tháng 5 năm 2008, đảng cầm quyền của Tổng thống

Saakashvili “Phong trào Dân tộc Thống nhất” được 119 ghế đại biểu, Liên minh đối lập

được 17 ghế; đảng Tự do và đảng “Phong trào Dân chủ Cơ đốc giáo” – mỗi đảng được 6 ghế,

đảng “Cộng hoà” đối lập được 2 ghế.

Sau cuộc khủng hoảng liên quan tới cái gọi là sự gian lận trong cuộc bầu cử nghị

viện năm 2003, Eduard Shevardnadze từ chức tổng thống ngày 23 tháng 11 năm 2003 trong

cuộc Cách mạng hoa hồng không đổ máu. Tổng thống lâm thời là Chủ tịch Hạ viện sắp hết

nhiệm kỳ, Nino Burjanadze. Ngày 4 tháng 1 năm 2004 Mikheil Saakashvili, lãnh đạo Phong

trào Quốc gia Dân chủ (NMD) (Phong trào Quốc gia Thống nhất trước kia) đã chiến thắng

trong cuộc bầu cử tổng thống và nhậm chức ngày 25 tháng 1.

Cuộc bầu cử nghị viện trong sạch được tổ chức ngày 28 tháng 3 theo đó NMD giành

lại đại đa số ghế (với khoảng 75% phiếu bầu) với chỉ một đảng giành được 7% số phiếu (Đối

lập Cánh hữu với khoảng 7.5%). Cuộc bầu cử này được phương Tây tin là một trong những

cuộc bầu cử trong sạch nhất từng được tổ chức tại nước Gruzia độc lập dù đã có tình trạng

căng thẳng giữa chính phủ trung ương và lãnh đạo Ajaria Aslan Abashidze liên quan tới cuộc

bầu cử tại vùng này. Dù công nhận cuộc bầu cử này OSCE vẫn lưu ý tình trạng sử dụng sai

các nguồn tài nguyên nhà nước có lợi cho đảng cầm quyền.[6]

Căng thẳng giữa chính phủ Gruzia và chính phủ Ajaria đã tăng lên sau cuộc bầu

cử cho tới tận cuối tháng 4, lên tới đỉnh điểm ngày 1 tháng 5 khi Abashidze phản ứng với

cuộc diễn tập quân sự của chính phủ Gruzia và ba cây cầu nối Ajaria với Gruzia trên Sông

Choloki nổ tung. Ngày 5 tháng 5, Abashidze bị buộc phải rời khỏi Gruzia khi những cuộc

tuần hành đông đảo tại Batumi kêu gọi ông từ chức và thúc giục Nga tăng sức ép với việc gửi

thư ký Hội đồng an ninh Igor Ivanov tới đây.

Ngày 3 tháng 2 năm 2005, Thủ tướng Zurab Zhvania được cho là đã chết vì bị đầu

độc bằng carbon monoxide trong một vụ rò rỉ khí gas tại nhà Raul Usupov, phó thống đốc

vùng Kvemo Kartli. Sau đó, bạn thân và là đồng minh từ lâu của Zhvania, Bộ trưởng tài

chính Zurab Nogaideli đã được tổng thống Saakashvili chỉ định vào chức vụ này.

trang đất nước và tăng tổng quân số lên khoảng 26.000. Trong số này, 5.000 quân đã được

huấn luyện sử dụng kỹ thuật hiện đại với các giảng viên thuộc quân đội Hoa Kỳ.[25] Một số

thuộc nhóm này đã được triển khai đồn trú tại Iraq như một phần lực lượng liên minh quốc tế

trong vùng, phục vụ tại Baqubah và Vùng xanh tại Baghdad. Tháng 5 năm 2005, Tiểu đoàn

bộ binh số 13 (“Shavnabada”) đã trở thành tiểu đoàn đầu tiên được triển khai bên ngoài

Từ khi lên cầm quyền năm 2003, Saakashvili đã tăng chi cho các lực lượng vũ

Gruzia. Đơn vị này chịu trách nhiệm tại hai trạm gác ở Vùng xanh, và đảm bảo an ninh

cho Nghị viện Iraq. Tháng 10 năm 2005, đơn vị này đã được thay thế bởi Tiểu đoàn bộ binh

số 21. Các binh sĩ thuộc tiểu đoàn 13 sử dụng “trang bị chiến đấu” của đơn vị Hoa Kỳ chỉ

huy họ. Sư đoàn bộ binh số 3 Hoa Kỳ. Chính phủ Gruzia tuyên bố đã tái lập “trật tự hiến

pháp” tại thượng Kodori Gorge — phần duy nhất thuộc quyền kiểm soát của Gruzia tại

vùngAbkhazia.[26]

Trong vài năm qua Gruzia đã giảm đáng kể nạn tham nhũng. Tổ chức Minh bạch

Quốc tế xếp Gruzia ở vị trí 99 trong bảng Chỉ số Nhận thức Tham nhũng năm 2006 của họ

(số 1 được coi là quốc gia có nạn tham nhũng ít nhất).[27] Đây là một bước cải thiện đáng kể

bởi Chỉ số này của Gruzia trong năm 2005 là 130.

Đầu tháng 11 năm 2007, Gruzia lâm vào khủng hoảng chính trị. Tổng thống Gruzia

tuyên bố tiến hành bầu cử trước hạn vào đầu năm 2008. Ngày 5 tháng 1 năm2008, Ông

Saakashvili đã tái trúng cử tổng thống ngay vòng đầu với gần 52% phiếu ủng hộ.

Hiện nay, chính trường Gruzia vẫn tiềm ẩn nhiều bất ổn; các đảng đối lập tổ chức

nhiều hoạt động phản đối, đòi Tổng thống từ chức, đặc biệt là sau xung đột giữa Gruzia

và Nga tại Nam Ossetia và Abkhazia.

Quốc hội Grudia đã thông qua hiến pháp mới. Những thay đổi trong hiến pháp là

sự giảm bớt quyền của Tổng thống và chuyển sang Thủ tướng. Tổng thống sẽ không còn

có quyền giải tán chính phủ, trong khi đó Thủ tướng sẽ đứng đầu việc điều hành, chịu trách

nhiệm bổ nhiệm các thành viên nội các và lập chính sách của chính phủ hàng ngày. Những

thay đổi sẽ được tiến hành dần từng giai đoạn và sẽ có hiệu lực hoàn toàn và đầy đủ vào

năm 2013 khi Saakashvili kết thúc nhiệm kỳ Tổng thống lần thứ hai của mình.

Quan hệ đối ngoại

Gruzia duy trì quan hệ tốt với các nước láng giềng Armenia, Azerbaijan và Thổ

Nhĩ Kỳ và tham gia tích cực vào các tổ chức cấp vùng, như Hội đồng Kinh tế Biển Đen

và GUAM.[28] Gruzia cũng giữ quan hệ chính trị, kinh tế và quân sự chặt chẽ với Ukraina.

Ảnh hưởng ngày càng tăng của Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu tại Gruzia, đặc biệt

thông qua chương trình hỗ trợ Huấn luyện và Trang thiết bị cũng như việc xây dựngđường

ống Baku-Tbilisi-Ceyhan, đã thường dẫn tới sự trì trệ trong quan hệ của Tbilisi với Nga.

Gruzia hiện đang tiến hành đàm phán để trở thành thành viên đầy đủ của NATO.

Tháng 8 năm 2004, Kế hoạch Hành động Cộng tác Đơn phương của Gruzia đã được chính

thức đệ trình lên NATO. Ngày 29 tháng 10 năm 2004, Hội đồng Bắc Đại Tây Dương của

NATO đã thông qua Kế hoạch Hành động Cộng tác Đơn phương(IPAP) của Gruzia và

Gruzia đã tiến vào giai đoạn hai của quá trình Hội nhập Euro-Atlantic. Năm 2005, theo quyết

định của Tổng thống Gruzia, một hội đồng nhà nước được thành lập để thực hiện Kế hoạc

Hành động Cộng tác Đơn phương, với những nhóm liên bộ do Thủ tướng đứng đầu. Ủy ban

này có nhiệm vụ phối hợp và kiểm soát việc thực hiện Chương trình Hành động Cộng tác

Đơn phương.

Ngày 14 tháng 2 năm 2005, thỏa thuận về việc chỉ định nhân viên liên lạc Đối tác vì

Hòa bình (PfP) giữa Gruzia và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương bắt đầu có hiệu lực,

theo đó nhân viên liên lạc cho Nam Kavkaz được giao cho Gruzia. Ngày 2 tháng 3 năm 2005,

thỏa thuận đã được ký kết về việc sự kiện nước chủ nhà hỗ trợ và cung cấp quá cảnh cho các

lực lượng và nhân viên NATO. Ngày 6-9 tháng 3 năm 2006, đội đánh giá thực thi IPAP đã

tới Tbilisi. Ngày 13 tháng 4 năm 2006, cuộc thảo luận báo cáo đánh giá thực thi Kế hoạch

Hành động Hợp tác Cá nhân được tổ chức tại trụ sở NATO, theo hình thức 26+1.[29] Năm

2006, nghị viện Gruzia đã đơn phương bỏ phiếu thông qua dự luật kêu gọi sự gia nhập của

nước này vào NATO. Đa số người dân và chính trị gia Gruzia ủng hộ việc tham gia vào tổ

chức này. Hiện tại, Gruzia đang hy vọng gia nhập NATO vào năm 2009.

George W. Bush đã trở thành tổng thống đương nhiệm đầu tiên của Hoa Kỳ tới thăm

nước này.[30] Đường phố dẫn tới sân bay Quốc tế Tbilisi đã được đặt tên Đại lộ George W.

Bush.[31]

Từ website của hội đồng Châu Âu: Tổng thống Mikhail Saakashvili coi việc gia

nhập EU và NATO là ưu tiên lâu dài. Bởi ông không muốn Gruzia trở thành địa điểm tranh

giành giữa Hoa Kỳ-Nga và ông tìm cách duy trì quan hệ tốt với Hoa Kỳ cùng Liên minh châu

Âu trong khi vẫn nhấn mạnh tham vọng tăng cường hợp tác với Nga.[28]

Ngày 2 tháng 10 năm 2006, Gruzia và Liên minh Châu Âu đã ký một tuyên bố chung

về văn bản thỏa thuận Kế hoạch Hành động Gruzia-Liên minh Châu Âu bên trongChính sách

Láng giềng Châu Âu (ENP). Kế hoạch hành động đã được chính thức thông qua tại kỳ họp

Hội đồng hợp tác Gruzia-Liên minh Châu Âu ngày 14 tháng 11năm 2006 tại Brussels.[32]

Ngày 2 tháng 2 năm 2007, Gruzia đã chính thức trở thành thành viên cấp vùng mới

nhất của Ngân hàng Phát triển Châu Á. Nước này hiện nắm 12.081 trong ngân hàng, 0.341

tổngn số.

Quan hệ Nga – Gruzia

Từ năm 1994, Gruzia đồng ý cho Nga sử dụng 3 căn cứ quân sự trên lãnh thổ Gruzia

và đưa các lực lượng gìn giữ hoà bình của Nga đóng trên lãnh thổ Gruzia -Abkhazia và Nam

Ossetia là hai lãnh thổ ly khai chống lại chính quyền Gruzia. Chính quyền của Tổng

thống Mikhail Saakashvili yêu cầu Nga rút căn cứ quân đội ra khỏi lãnh thổ Gruzia.

Ngày 31 tháng 3 năm 2006, Nga và Gruzia đã ký Hiệp định rút vũ khí hạng nặng. Đầu

năm 2008, Nga dã rút hoàn toàn các lực lượng quân sự của mình khỏi các căn cứ quân sự ở

Từ đầu năm 2008, Nga bắt đầu có các quan hệ chính thức với chính quyền của hai

vùng lãnh thổ Abkhazia và Nam Ossetia. Tình hình tại Nam Ossetia và Abkhaziabắt đầu trở

nên đặc biệt căng thẳng từ đầu năm 2008 sau khi Kosovo tuyên bố độc lập, và đã dẫn đến

xung đột bằng quân sự giữa Nga và Gruzia vào đầu tháng 8năm 2008. Cuộc xung đột diễn ra

trong 5 ngày đã làm hơn 300 người thiệt mạng và hàng chục nghìn người phải sơ tán. Gruzia

đã xin ra khỏi Tổ chức SNG và ngày 2 tháng 9 năm 2008 tuyên bố cắt quan hệ ngoại giao với

Quan hệ giữa Gruzia và Nga có dấu hiện cải thiện khi cửa khẩu biên giới Nga –

Grudia là Kazbegi – Zemo Larsi đã bị đóng cửa từ tháng 7 năm 2006 được mở cửa lại từ

ngày 1 tháng 3 năm 2010 và ngày 18 tháng 8 năm 2010, Nga đã thông qua việc mở lại các

chuyến bay thẳng thương mại giữa hai thủ đô Moskva và Tbilisi.

Các vùng, nước cộng hoà và quận

Gruzia được chia thành 9 vùng, 2 nước cộng hòa tự trị (avtonomiuri respublika), và 1

thành phố (k’alak’i). Các vùng được chia nhỏ tiếp thành 69 quận (raioni).

Có hai nước cộng hòa tự trị, Abkhazia và Ajaria.

Hiện tại, vị thế của Nam Ossetia, một quận hành chính tự trị trước kia, cũng được gọi

là vùng Tskhinvali, đang được đàm phán với chính phủ ly khai được Nga ủng hộ. Kodori

Gorge là phần duy nhất của Abkhazia vẫn còn dưới quyền kiểm soát thực tế của Gruzia.

Các thành phố lớn

gồm: Batumi, Chiatura, Gagra, Gori, Kutaisi, Poti, Rustavi, Sukhumi, Tbilisi, Tkibuli, Tskalt

ubo, Tskhinvali.

gồm: Abasha, Adigeni, Akhalgori, Akhalkalaki, Akhaltsikhe, Akhmeta, Ambrolauri, Aspindz

a, Baghdati,Batumi, Bolnisi, Borjomi, Chiatura, Chkhorotsku, Chokhatauri, Dedoplistskaro,

Dmanisi, Dusheti, Gagra, Gali, Gardabani, Gori,Gudauta, Gulripshi, Gurjaani, Java, Kareli, K

aspi, Kedi, Kharagauli, Khashuri, Khelvachauri, Khobi, Khoni, Khulo, Kobuleti,Kutaisi, Kvar

eli, Lagodekhi, Lanchkhuti, Lentekhi, Marneuli, Martvili, Mestia, Mtskheta, Ninotsminda, On

i, Ozurgeti, Poti, Rustavi, Sachkhere, Sagarejo, Samtredia,Senaki, Shuakhevi, Sighnaghi, Suk

humi, Stepantsminda, Telavi, Terjola, Tetritskaro, Tianeti, Tkibuli, Tsageri, Tskhinvali, Tsale

njikha, Tsalka, Tskaltubo, Vani,Zestaponi, và Zugdidi.

Địa lý và khí hậu

Ở phía bắc, Gruzia có 723 km biên giới chung với Nga, cụ thể là quận liên

bang Bắc Kavkaz. Các vùng/nước cộng hòa sau thuộc Nga – từ tây sang đông – có

biên giới với Gruzia: Krasnodar Krai, Karachay-Cherkessia,Kabardino-Balkaria, Bắc

Ossetia-Alania, Ingushetia, Chechnya, Dagestan. Gruzia cũng có chung biên giới

vớiAzerbaijan (322 km) ở phía đông nam, Armenia (164 km.) ở phía nam, và Thổ Nhĩ

Kỳ (252 km.) ở phía tây nam.

Núi non là kiểu địa lý đặc trưng tại Gruzia. Dãy Likhi chia Gruzia thành nửa phía

đông và nửa phía tây. Trong lịch sử, nửa phía tây Gruzia được gọi là Colchis còn phần

phía đông được gọi là Iberia. Vì kiểu địa hình phức tạp, núi non cũng ngăn cách vùng phía

bắc Svaneti khỏi Gruzia.

Dãy Đại Caucasus ngăn cách Gruzia với các nước Bắc Kavkaz thuộc nước Nga.

Phần phía nam đất nước giáp với dãy Hạ Kavkaz. Dãy núi Kavkaz có độ cao lớn hơn dãy Hạ

Kavkaz, với đỉnh cao nhất hơn 5.000 mét (16.400 ft.) trên mực nước biển.

Các quận tại Gruzia

Núi cao nhất tại Gruzia là Núi Shkhara ở độ cao 5.201 mét (17.059 feet), đứng thứ

hai là Núi Janga (Jangi-Tau) ở độ cao 5.051 mét (16.572 feet) trên mực nước biển. Các

đỉnh đáng chú ý khác gồm Kazbegi (Kazbek) 5.047 mét (16.554 feet), Tetnuldi (4.974m./

16.319 ft.), Shota Rustaveli (4.960m./16.273 ft.), Núi Ushba (4.710m./15.453 ft.), và

Ailama (4.525m./14.842 ft.). Ngoài các đỉnh trên, chỉ Kazbegi có nguồn gốc núi lửa. Vùng

giữa Kazbegi và Shkhara (khoảng cách chừng 200 km, dọc dãy Kavkaz chính) chủ yếu gồm

nhiều đỉnh băng tuyết. Núi Hạ Kavkaz được tạo thành và chia cắt bởi nhiều dãy núi (chủ yếu

có nguồn gốc núi lửa) không vượt quá 3.400 mét. Các đặc điểm chủ yếu của vùng này gồm

Cao nguyên Núi lửa Javakheti, nhiều hồ, gồm cả Tabatskuri và Paravani, cũng như nhiều suối

nước khoáng và nước nóng.

Hang Voronya (còn được gọi là hang Krubera-Voronia) là hang sâu nhất thế giới,

nằm tại Arabika Massif trong dãy Gagra, ở Abkhazia, Gruzia, Kavkaz. Chênh lệnh độ cao

của hang là 2.140 (± 9) mét. Hang này cũng giữ kỷ lục độ sâu 1.710 mét năm 2001 theo

khám phá của một đội khảo sát Nga-Ukraine. Năm 2004 độ sâu của hang này còn tăng thêm

sau ba đợt thám hiểm khác. Một đội khảo sát Ukraine đã vượt độ sâu –2000 m lần đầu tiên

trong lịch sử hang học. Tháng 10 năm 2005, một phần mới chưa được khám phá đã được đội

CAVEX tìm thấy, và hang còn trở nên sâu hơn. Cuộc thám hiểm này đã xác nhận độ sâu hiện

nay của hang – 2.140 (± 9).

Hai con sông chính tại Gruzia là Rioni và Mtkvari.

Phong cảnh

Phong cảnh bên trong biên giới quốc gia khá khác biệt. Vùng phía tây từ các cánh

rừng đầm lầy đất thấp và rừng mưa ôn hoà tới những dòng sông băng tuyết vĩnh cửu, trong

khi vùng phía đông đất nước có nhiều đồng bằng bán khô cằn không liên tục nhỏ, đặc điểm

của vùng Trung Á. Rừng che phủ khoảng 40% diện tích lãnh thổ Gruzia trong khi những

vùng núi non phụ núi cao chiếm khoảng 10%.

trong vòng 100 năm qua vì tình trạng phát triển nông nghiệp và thành thị hoá. Đại đa số rừng

từng che phủ đồng bằng Colchis hiện không còn tồn tại ngoại trừ những vùng đã được giành

làm các công viên và khu dự trữ quốc gia (ví dụ vùng Hồ Paleostomi). Hiện tại, nói chung

rừng che phủ phần bên ngoài các vùng đất thấp và chủ yếu nằm dọc các chân đồi núi. Những

cánh rừng tây Gruzia chủ yếu gồm các cây phù du dưới 600 m trên mực nước biển (1.968 ft.)

và gồm các loài như sồi, trăn, sồi phương đông, đu, tần bì, và dẻ. Những loài cây xanh tốt

quanh năm như cây hoàng dương cũng xuất hiện tại nhiều vùng. Khoảng 1000 trên tổng số

hơn 4000 loài thực vật Gruzia là sinh vật đặc hữu của quốc gia này[33]. Những khu vực đất

dốc tây trung tâm Rặng Meskheti tại Ajaria cũng như nhiều địa điểm

ở Samegrelovà Abkhazia được che phủ bởi những cánh rừng mưa ôn đới. Ở độ cao 600–

1.500 mét (1.968-4.920 ft.) trên mực nước biển, những cánh rừng cây bụi hòa trộn với cả

những loài cây lá rộng và tùng bách tạo nên đời sống thực vật. Vùng này chủ yếu gồm những

cánh rừng cây sồi,vân sam, và linh sam. Từ 1.500-1.800 mét, rừng chủ yếu gồm họ tùng

bách. Các loài cây nói chung không mọc ở độ cao trên 1.800 mét và vùng núi bắt đầu thay

Đa phần dân cư tự nhiên tại những vùng đất thấp phía tây Gruzia đã biến mất

thế, ở đa số các vùng, mở rộng lên tới độ cao 3.000 mét trên mực nước biển. Vùng băng tuyết

vĩnh cửu nằm trên vạch 3.000 mét.

với phong cảnh phía tây, gần như tất cả các vùng đất thấp phía đông Gruzia gồm cả các đồng

bằng sông Mtkvari và Alazani đều đã không còn rừng vì bị sử dụng vào nông nghiệp. Ngoài

ra, vì điều kiện khí hậu khá khô tại đây, một số đồng bằng đất thấp (đặc biệt tại Kartli và tây

nam Kakheti) chưa bao giờ có rừng che phủ. Phong cảnh chung phía đông Gruzia gồm nhiều

thung lũng và máng bị núi non chia cắt. Trái ngược với tây Gruzia, gần 85% rừng tại vùng

này là phù du. Những cánh rừng tùng bách chỉ chiếm ưu thế tại Borjomi Gorge và các vùng

cực tây. Ngoài các loài cây phù du, sồi, trăn cũng là loài ưu thế. Các loài phù du khác gồm

nhiều giống thích, dương lá rung, tần bì, và phỉ. Thung lũng thượng sông Alazani gồm các

cánh rừng thủy tùng. Ở độc cao trên 1.000 mét (3.280 ft) trên mực nước biển (đặc biệt tại

vùng Tusheti, Khevsureti, và Khevi), các cánh rừng thông và bu lô chiếm ưu thế. Nói chung

các cánh rừng phía đông Gruzia xuất hiện trong khoảng độ cao 500–2.000 mét (1.640–

6.560 ft) trên mực nước biển, và vùng cây thông trải dài từ 2.000/2.200–3.000/3.500 mét

(khoảng 6.560–11.480 ft). Cánh rừng đất thấp lớn duy nhất còn lại tại Thung

lũng Alazani là Kakheti. Vùng băng tuyết vĩnh cửu trên 3.500 mét (11.480 ft.) xuất hiện tại

hầu hết các nơi ở Gruzia.

Hệ động vật

Vì sự đa dạng phong cảnh và có vĩ độ thấp, Gruzia là nơi sinh sống của một số loài

động vật đặc biệt, ví dụ khoảng 1000 loài có xương sống (330 loài chim, 160 cá, 48 bò sát,

11 lưỡng cư). Một số lượng lớn loài ăn thịt sống tại các khu rừng, như Báo Ba Tư, Gấu

xám, chó sói, và mèo rừng. Số lượng các loài không xương sốngđược coi là rất cao nhưng dữ

liệu được phân loại thành nhiều ấn bản. Ví dụ, danh sách nhện Gruzia gồm 501 loài.

Khí hậu

Trên một diện tích khá nhỏ, khí hậu Gruzia khá khác biệt. Có hai vùng khí hậu chính,

vùng phía đông và vùng phía tây đất nước. Dãy Đại Kavkaz đóng vai trò quan trọng trong

việc giữ ôn hòa khí hậu Gruzia và bảo vệ quốc gia này khỏi sự xâm nhập của những khối khí

lạnh từ phương bắc. Dãy Tiểu Kavkaz cũng đóng góp một phần bảo vệ nước này khỏi ảnh

hưởng từ các khối không khí khô và nóng từ phía nam.

Đa phần vùng phía tây Gruzia nằm bên trong lề vùng cận nhiệt đới ẩm với lượng mưa

hàng năm thay đổi trong khoảng 1000–4000mm. (39–157 inches). Lượng mưa có xu hướng

phân bố đồng đều suốt cả năm, dù lượng mưa có thể rất lớn trong những tháng mùa Thu. Khí

hậu của vùng này rất khác biệt theo độ cao và tuy đa số những vùng đất thấp phía tây Gruzia

có thời tiết khá ấm suốt năm, những vùng đồi núi (gồm cả Dãy Đại và Tiểu Kavkaz) có

mùa hè mát, ẩm và mùa đông nhiều tuyết (lượng tuyết phủ thường vượt quá 2 mét tại nhiều

vùng). Ajaria và vùng ẩm nhất Kavkaz, nơi rừng mưa Núi Mtirala, phía đông Kobuleti có

lượng mưa khoảng 4500mm (177 inches) hàng năm.

Phong cảnh đông Gruzia (vùng lãnh thổ phía đông Dãy Likhi) rất khác biệt so

Đông Gruzia có kiểu khí hậu chuyển tiếp từ cận nhiệt đới ẩm sang lục địa. Mô hình

khí hậu vùng này bị ảnh hưởng bởi cả những khối không khí khô Trung Á/Caspia và những

khối không khí từ Biển Đen phía tây. Sự xâm nhập của những khối không khí ẩm từ Biển

Đen thường bị ngăn chặn bởi nhiều rặng núi (Likhi và Meskheti) chia cắt những vùng phía

đông và phía tây đất nước. Lượng mưa hàng năm thấp hơn rất nhiều so với vùng tây Gruzia

và ở trong khoảng 400–1600mm (16–63 inches). Các giai đoạn ẩm nhất thường diễn ra

trong mùa Xuân và mùa Thu còn những tháng mùa Đông và mùa Hè thường khô hơn. Đa

phần vùng phía đông Gruzia có mùa hè nóng (đặc biệt tại các vùng thấp) và mùa đông khá

lạnh. Tương tự tại các vùng phía tây đất nước, độ cao cũng đóng vai trò quan trọng tại vùng

phía đông, và các điều kiện khí hậu ở độ cao hơn 1500 mét (4920 ft) trên mực nước biển

thường lạnh hơn rất nhiều so với tại các vùng đất thấp. Các vùng nằm ở độ cao trên 2000 mét

(6560 ft) trên mực nước biển thường có tình trạng đóng băng ngay cả trong những tháng mùa

Kinh tế

Nghiên cứu khảo cổ học cho thấy Gruzia đã có mối quan hệ thương mại với nhiều

vùng đất và đế chế ngay từ những thời cổ đại, chủ yếu nhờ vị trí của nước này tạiBiển Đen và

sau này là gần Con đường tơ lụa lịch sử. Vàng, bạc, đồng và sắt đã từng được khai thác tại

các mỏ vùng núi Kavkaz. Chế biến rượu cũng có truyền thống từ lâu đời.

Xuyên suốt lịch sử hiện đại Gruzia nông nghiệp và du lịch luôn là những lĩnh vực

then chốt, vì kiểu địa hình và khí hậu đất nước.[35]

Trong hầu hết thế kỷ 20, kinh tế Gruzia đi theo mô hình nền kinh tế chỉ huy Xô viết.

Từ khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991, Gruzia đã bắt đầu tiến hành một cuộc

cải cách cơ cấu lớn với mục tiêu chuyển tiếp sang một nền kinh tế thị trường tự do. Tuy

nhiên, tương tự như các nước cộng hòa hậu Xô viết khác, Gruzia đã phải đối mặt với tình

trạng sụp đổ kinh tế nghiêm trọng. Nội chiến và những cuộc xung đột quân sự tại Nam

Ossetia và Abkhazia càng làm cuộc khủng hoảng trở nên tồi tệ.[cần dẫn nguồn] Sản lượng

nông nghiệp và công nghiệp sụt giảm. Tới năm 1994 tổng sản phẩm quốc nối đã giảm xuống

chỉ còn bằng một phần tư năm 1989.[36]

Sự hỗ trợ tài chính đầu tiên của phương Tây cho nước này diễn ra năm 1995,

khi Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế trao cho Gruzia khoản vay 206

triệuUSD và Đức cho nước này vay 50 triệu DM.

Tới năm 2001 54% dân số sống dưới mức nghèo khổ quốc gia nhưng tới năm 2006

con số ngày đã giảm còn 34%. Năm 2005 thu nhập trung bình hàng tháng của hộ gia đình là

GEL 347 (khoảng 200 USD).[37]

Từ đầu thập niên 2000 những phát triển lạc quan đã được quan sát thấy trong nền kinh

tế Gruzia. Năm 2006 tăng trưởngGDP thực của Gruzia đã đạt 8.8%, khiến Gruzia trở thành

một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Âu.[35] Ngân hàng Thế giới đã

trao cho Gruzia danh hiệu “nền kinh tế cải cách số một thế giới” vì trong vòng một năm nước

này đã cải thiện vị trí từ 112 lên 37 về sự dễ dàng trong kinh doanh.[38] Tuy nhiên, tỷ lệ thất

nghiệp cao 12.6% vàthu nhập trung bình hộ còn ở mức khá thấp so với các quốc gia Châu Âu

Những con số ước tính năm 2006 cho thấy mức GDP (theo sức mua tương đương)

của Gruzia đạt mức US$17.79 tỷ. Kinh tế Gruzia đang trở nên phụ thuộc hơn vào dịch

vụ (hiện chiếm 54.8% GDP), chứ không còn vào lĩnh vực nông nghiệp (17.7%) nữa.[35]

Nước này có nguồn tài nguyên thủy năng lớn.

Lệnh cấm nhập khẩu rượu Gruzia vào Nga năm 2006, một trong những đối tác thương

mại lớn nhất của Gruzia, và dừng các kết nối tài chính đã được phái bộ của IMF miêu tả là

một “cú sốc từ bên ngoài”,[39] Ngoài ra, Nga đã tăng giá khí đốt bán cho Gruzia. Hành động

này khiến tỷ lệ lạm phát của đồng lari Gruzia tăng mạnh.[cần dẫn nguồn] Ngân hàng Quốc

gia Gruzia nói rằng lạm phát chủ yếu bị gây ra bởi những lý do bên ngoài, gồm cả lệnh cấm

vận kinh tế của Nga.[40] Các cơ quan chức năng Gruzia hy vọng khoản thâm hụt tài khoản

vãng lai do lệnh cấm vận gây ra trong năm 2007 sẽ được cân bằng bởi “tỷ giá quy đổi ngoại

tệ cao nhờ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào mạnh” và nguồn thu tăng của du

lịch.[41] The country has also maintained a solid credit in international market securities.[42]

Gruzia hiện đang hội nhập sâu hơn vào mạng lưới thương mại quốc tế: nhập khẩu và

xuất khẩu trong năm 2006 của nước này chiếm 10% và 18% GDP.[35] Các mặt hàng nhập

khẩu chính của Gruzia là khí gas tự nhiên, các sản phẩm dầu mỏ, máy và phụ tùng, và các

trang thiết bị vận tải.

Năm 2004, khoản thuế thu nhập cố định 12% đã được áp dụng tại Gruzia.[43] Số tiền

thuế thu được đã tăng đáng kể, nhờ vậy giảm bớt những khoản thâm hụt ngân sách lớn trước

kia của chính phủ.[cần dẫn nguồn]

Các chuyên gia ước tính rằng trong vòng vài năm qua Gruzia đã thu hẹp được đáng

kể tình trạng tham nhũng, và tổ chức Minh bạch Quốc tế đã đưa Gruzia từ vị trí 130 lên 99

thế giới trong danh sách Chỉ số Nhận thức Tham nhũng năm 2006 của họ (số 1 là quốc gia có

nạn tham nhũng ít nhất).[27]

Gruzia đang phát triển vào một hành lang vận tải quốc tế qua các

cảng Batumi và Poti, một đường ống dẫn dầu từ Baku xuyên Tbilisi tới Ceyhan, đường ống

Baku-Tbilisi-Ceyhan (BTC) và một đường ống dẫn khí chạy song song, Đường ống dẫn khí

Nam Kavkaz.

Nhân khẩu

Nhân khẩu Gruzia có đặc trưng ở sự đa dạng sắc tộc. Dân tộc Grizia chiếm đa số,

khoảng 83.8%, dân số hiện tại của Gruzia 4.661.473 người (ước tính tháng 7 năm 2006).[44]

Các nhóm sắc tộc khác gồm người Azeri, chiếm 6.5% dân số,người Armenia – 5.7%, Nga –

1.5%, người Abkhazia, và người Ossetia. Nhiều nhóm sắc tộc nhỏ hơn khác cũng sống tại

quốc gia này gồm người Assyria, người Chechen, Trung Quốc, người Do Thái Gruzia, người

Hy Lạp, người Kabardin,người Kurd, người Tatar, người Turk và người Ukraina. Đáng chú

ý, cộng đồng người Do Thái Gruzia là một trong những cộng đồng lâu đời nhất trên thế giới.

Gruzia cũng là quốc gia có sự đa dạng về ngôn ngữ. Trong ngữ hệ Gruzia, người

Gruzia nói tiếng Gruzia (cũng được gọi là Kartuli), tiếng Laz, tiếng Mingrelian, và tiếng

Svan. Ngoài ra, những cộng đồng không phải người Gruzia bên trong đất nước thường sử

dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ bên cạnh tiếng Gruzia. Các ngôn ngữ chính thức của Gruzia

gồm tiếng Gruzia và tiếng Abkhaz tại vùng tự trị Abkhazia. 71% dân số nói các ngôn ngữ

Gruzia (gồm Mingrelian, tiếng Svan, vàtiếng Laz), 9% – tiếng Nga, 7% – tiếng Armenia, 6% –

Azeri và 7% khác.[cần dẫn nguồn] Tỷ lệ biết chữ tại Gruzia là 100%.

Đầu thập niên 1990, sau khi Liên bang Xô viết giải tán, nhiều cuộc xung đột ly

khai bạo lực đã bùng phát tại vùng tự trịAbkhazia và Nam Ossetia, dẫn tới cuộc thanh lộc sắc

tộc người Gruzia khỏi Abkhazia, nơi trước kia sắc tộc Gruzia từng là nhóm sắc tộc riêng lẻ

lớn nhất (46% dân số năm 1989). Nhiều người Ossetia sống tại Gruzia cũng rời bỏ đất nước,

chủ yếu tới vùng Bắc Ossetia thuộc Nga.[45] Trong số những người Meskhetian Turk từng

bịbắt buộc di dời trong năm 1944 chỉ một nhóm nhỏ quay trở lại Gruzia năm 2007.

Tỷ lệ di cư thực của Gruzia là -4.54, không tính những người Gruzia sống tại nước

ngoài. Dù sao Gruzia đã tiếp nhận những người di cư từ khắp nơi trên thế giới trong suốt thời

kỳ độc lập. Theo những con số thống kê năm 2006, đa số người di cư tới Gruzia từ Thổ Nhĩ

Kỳ và Trung Quốc.

Tôn giáo

Gruzia là 1 trong những nước đầu tiên nhận Ki-tô giáo làm quốc giáo (năm 337 AD,

hoặc năm 319 theo như 1 số ý kiến gần đây), khiến Gruzia trở thành quốc gia Kitô lâu đời

thứ hai chỉ sau Armenia. Điều này tạo nên ý thức dân tộc mạnh mẽ giúp bảo tồn đặc tính

quốc gia trước những giai đoạn bị ngoại bang xâm chiếm và đồng hóa. Ngày nay đa số dân

cư Gruzia theo Kitô giáo Chính thống (83.9%), thuộc về Giáo hội Chính thống Gruzia. Tuy

nhiên, Gruzia có lịch sử hòa trộn tôn giáo lâu dài bên trong biên giới lãnh thổ dù có những

cuộc xung đột với các quốc gia xung quanh. Nhiều cộng đồng tôn giáo thiểu số đã tồn tại

tại Gruzia trong hàng nghìn năm và tình trạng phân biệt tôn giáo rõ ràng không xuất hiện tại

quốc gia này.[46]

Nhà thờ chính tòa Svetitskhoveli ởMtskheta, cố đô của Gruzia, là 1 trong số những

thánh đường cổ xưa nhất trong thế giới Kitô giáo.

Kitô giáo, lần đầu được các thánh Tông đồ Anrê, Simôn Quá Khích và Matthia thuyết

giảng vào thế kỷ thứ nhất. Miền Iberia chính thức cải sang Kitô giáo năm 326[47] bởithánh

Nino xứ Cappadocia, được tôn vinh là người soi sáng cho Gruzia. Kinh thánh đã được dịch

sang tiếng Gruzia ở thế kỷ thứ 5. Đáng chú ý, bản ghi chép cổ nhất của Gruzia là một văn

bản asomtavruli trong một nhà thờ tại Bethlehem từ năm 430 Công Nguyên.

Thánh đường Svetitskhoveli, nổi tiếng là nơi lưu giữ chiếc áo choàng của Chúa Giêsu,

chiếc áo này được mang tới Mtskheta sau khi cuộc hành hình đóng đinh lên thánh giá diễn

ra, bởi một người Do thái từ Iberia, Elias, là nhà thờ đầu tiên tại Gruzia.[48] Gruzia thuộc sự

bảo trợ của Đức Mẹ đồng trinh Maria, theo thánh Stefan người nói rằng sứ mệnh của Đức

Mẹ ở vùng đất Iberia sau khi các thánh Tông đồ bốc thăm để quyết định xem Chúa muốn

mỗi người trong số họ sẽ truyền giáo tại quốc gia nào.[49] Jacques de Vitry và Sir John

Maundeville đã nói rằng người Gruzia được gọi là Georgian bởi họ đặc biệt sùng kính thánh

George và khi họ đi hành hương tới Mộ Chúa, họ đã vào thành phố Jerusalem với những biểu

ngữ phô trương.[7]

Các nhóm thiểu số tôn giáo gồm: Hồi giáo (9.9%); Giáo hội Tông truyền

Armenia (3.9%);Công giáo Rôma (0.8%). Có 0.8% số người trong cuộc điều tra dân số năm

2002 trả lời họ là tín đồ của một tôn giáo khác và 0.7% vô thần.[35]

Văn hoá

Văn hóa Gruzia đã phát triển từ hàng nghìn năm cùng lịch sử nền văn minh hai

quốc gia tiền thân của nó là Iberia và Colchis[50], tiếp tục phát triển cùng Vương quốc

Gruzia thống nhất ở thời triều đình Bagrationi đạt tới đỉnh cao về văn học cổ điển, nghệ

thuật, triết học, kiến trúc và khoa học ở thế kỷ 11.[51] Ngôn ngữ Gruzia tràn đầy sức sống

cộng với bảng chữ cái độc nhất, và nền văn học Gruzia cổ điển với nhà thơ sử thi huyền

thoại Shota Rustaveli đã được hồi sinh ở thế kỷ 19 sau một giai đoạn hỗn loạn kéo dài, lập

nên những nền tảng cho các thành tựu của các tác giả thuộc trường phái lãng mạn các tiểu

thuyết gia thời hiện đại như Grigol Orbeliani,Nikoloz Baratashvili, Ilia Chavchavadze, Akaki

Tsereteli, Vaza Pshavela, và những người khác.[52] Văn hóa Gruzia với nền văn minh độc

đáo và duy nhất cũng có ảnh hưởng từ Hy Lạp cổ điển, La Mã và Đế chế Byzantine, và sau

này là bởi Đế chế Nga góp phần tạo ra bản sắc Châu Âu của nền văn nước này.

Gruzia nổi tiếng vì có một nền văn hóa dân gian phong phú, âm nhạc truyền

thống độc đáo, sân khấu, phim, nghệ thuật, vân vân. Người dân Gruzia được thế giới

biết tới về lòng yêu âm nhạc, khiêu vũ, sân khấu và điện ảnh như đã được chứng minh

trong thế kỷ 20 với những đóng góp to lớn của họ vào nền nghệ thuật thế giới nhờ những

gương mặt nghệ sĩ đại diện cho nền văn hóa Gruzia như các họa sĩ lừng danh (Niko

Pirosmani, Lado Gudiashvili, Elene Akhvlediani, vân vân), balletchoreographers (George

Balanchine, Vakhtang Chabukiani, Nino Ananiashvili) các nhà thơ (Galaktion Tabidze, Lado

Asatiani, Mukhran Machavariani, vân vân) và các đạo diễn sân khấu/phim (Robert

Sturua, Tengiz Abuladze, Otar Ioseliani, vân vân).

Kiến trúc

Kiến trúc Gruzia là một trong những nền kiến trúc đặc biệt và độc đáo nhất thế giới.

Tuy nhiên, nó đã trở nên phong phú và hấp thu ảnh hưởng từ nhiều nền văn minh bên ngoài

trong suốt lịch sử lâu dài của đất nước. Có nhiều phong cách kiến trúc lâu đài,tháp pháo

đài và nhà thờ. Pháo đài Upper Svaneti và thị trấn lâu đài Shatili tại Khevsureti là một trong

những công trình đẹp nhất thể hiện phong cách kiến trúc lâu đài Gruzia thời Trung Cổ.

Nghệ thuật nhà thờ Gruzia là một trong những khía cạnh đáng chú ý nhất của kiến

trúc Kitô giáo Gruzia, tích hợp kiểu mái vòm cổ điển với phong cách kiến trúc La Mã nguyên

thủy hình thành nên cái được gọi là phong cách vòm chéo Gruzia. Phong cách kiến trúc vòm

chéo đã được phát triển tại Gruzia trong thế kỷ thứ 9 và trước đó, đa số các nhà thờ Gruzia

đều theo phong cách La Mã. Văn hóa Gruzia rất chú trọng tới cá nhân và điều này đã được

thể hiện qua sự phân bố không gian bên trong các nhà thờ. Các ví dụ khác về kiểu kiến trúc

giáo hội Gruzia có thể được tìm thấy ở nước ngoài tại (Tu viện Bachkovo Monastery xây

năm 1083 bởi vị tướng người Gruzia Grigorii Bakuriani) Bulgari, (Tu viện Iviron do người

Gruzia xây dựng trong thế kỷ thứ 10) tại Hy Lạp và tại Jerusalem (Tu viện Thánh giá do

người Gruzia xây dựng ở thế kỷ thứ 9).

Các khía cạnh khác về kiến trúc Gruziza gồm Đại lộ

Hausmannized Rustaveli ở Tbilisi và Khu phố cổ.

Nghệ thuật

Nghệ thuật Gruzia đa dạng từ các phong cách tiền sử tới Hy Lạp, La Mã, Trung Cổ,

từ các bức ikon (tranh thánh) tới nghệ thuật thị giáchiện đại. Một trong những nghệ sĩ nổi

tiếng nhất thời cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 của Gruzia là Niko Pirosmani, ông là một trong

những họa sĩ có ảnh hưởng nhất trong trường phái nguyên sơ trên thế giới. Các tác phẩm

của Pirosmani cũng mang một số yếu tố tiền ấn tượng vì thực tế ông chính là người gây ảnh

hưởng và người truyền cảm hứng cho Lado Gudiashvili và Elene Akhvlediani những nhân

vật chủ chốt của trường phái ấn tượng trong thế kỷ 20.

Ẩm thực

Ẩm thực và Rượu Gruzia được đánh giá cao trên khắp thế giới, thích ứng với các

truyền thống từ nhiều vùng khác nhau. Một trong những kiểu bữa tối truyền thống nhất

là Supra, hay bàn ăn Gruzia, đây cũng là cách hòa nhập giữa bạn bè và các thành viên trong

gia đình, theo đó Tamada là người chủ trì Supra, người chịu trách nhiệm điều phối những

chén rượu, và đảm bảo rằng tất cả mọi người đều hài lòng với bữa tiệc. Nhiều vùng lịch sử

tại Gruzia cũng có những món ăn nổi tiếng riêng của mình: ví dụ, Khinkali (bánh bao thịt), từ

vùng núi phía đông Gruzia và Khachapuri – chủ yếu từImereti, Mingrelia và Adjara.

Ngoài các món ăn truyền thống Gruzia các loại thực phẩm từ các quốc gia láng giềng

cũng theo chân những người nhập cư tới nước này, từ Nga, Hy Lạp, và gần đây là Trung

Mua bảo hiểm du lịch Gruzia như thế nào?

Bảo hiểm du lịch Gruzia dùng để chi trả cho những rủi ro trong quá trình sang Gruzia. Khách hàng có thể lựa chọn bảo hiểm với hạng A, B hay C là tùy thuộc vào mục đích và nhu cầu của khách hàng. Các hạng bảo hiểm này tương ứng với mức quyền lợi là 30000 USD/ EUR, 50000 USD/EUR và 70000 USD/EUR. Việc mua bảo hiểm còn giúp cho khách hàng yên tâm và tự tin hơn cho chuyến đi của mình. Làm bảo hiểm du lịch đi Gruzia tại Bảo Hiểm Bảo Việt là rất đơn giản và nhanh chóng. Khách hàng cần liên hệ tới trụ sở gần nhất của Bảo Hiểm Bảo Việt để cung cấp thông tin và làm bảo hiểm. Nếu khách hàng ở Hà Nội thì có thể liên hệ tới Bảo Việt Hà Nội. Khách hàng ở Thành Phố Hồ Chí Minh thì có thể liên hệ tới Bảo Việt Hồ Chí Minh hay Bảo Việt Sài Gòn để liên hệ và làm bảo hiểm. Cách nhanh nhất là khách hàng liên hệ tới số điện thoại: 0966.831.332 để được tư vấn cụ thể và làm bảo hiểm cho mình một cách nhanh nhất. Các thông tin để làm bảo bao gồm:

Họ và tên:

Ngày tháng năm sinh:

Địa chỉ:

Số hộ chiếu:

Ngày đi và ngày về:

Nơi đến:

Hạng bảo hiểm:

Liên hệ tư vấn và mua bảo hiểm: 0966.831.332

Copyright © Bảo Hiểm Bảo Việt.