BHXH, BHYT là những chính sách trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội Quốc gia, thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT góp phần bảo đảm quyền được an sinh xã hội của mỗi công dân, vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước. BHXH Việt Nam là ngành đi trước, đón đầu đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tiếp tục hiện đại hóa, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách BHXH, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người dân, doanh nghiệp.
BHXH, BHYT là những chính sách trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội Quốc gia, thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT góp phần bảo đảm quyền được an sinh xã hội của mỗi công dân, vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước. BHXH Việt Nam là ngành đi trước, đón đầu đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tiếp tục hiện đại hóa, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách BHXH, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người dân, doanh nghiệp.
Nền tảng CNTT – Yếu tố quan trọng
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, cơ sở dữ liệu về BHXH, trong đó bao gồm BHXH, BHYT, BH thất nghiệp luôn là trụ cột lớn của cơ sở dữ liệu an sinh xã hội. Hiện đại hóa và cung cấp được các dịch vụ công trên nền tảng CNTT luôn được tập trung hoàn thiện để trở thành yếu tố quan trọng nhất cho phát triển chính phủ điện tử, hiện đại hóa quản lý và phục vụ tốt hơn cho người dân, người lao động của Chính phủ các nước.
Ứng dụng CNTT, cải cách thủ tục hành chính (TTHC), nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cán bộ, viên chức, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người tham gia BHXH, BHYT là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình hoàn thiện, phát triển và đổi mới của hệ thống BHXH Việt Nam. Thời gian qua, BHXH Việt Nam đã triển khai mạnh mẽ ứng dụng CNTT bao phủ hầu hết các hoạt động nghiệp vụ nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trong giao dịch với cơ quan BHXH và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nắm bắt kịp thời cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Trước năm 2015, việc ứng dụng CNTT của ngành BHXH chưa được đẩy mạnh, hệ thống máy chủ, phần mềm, cơ sở dữ liệu phân tán tại BHXH các quận, huyện, chưa có hệ thống mạng WAN kết nối hệ thống CNTT giữa các đơn vị. Toàn bộ giao dịch với người dân và doanh nghiệp đều thực hiện theo hồ sơ giấy tờ qua bộ phận một cửa hoặc đến gặp trực tiếp cán bộ tại các phòng nghiệp vụ. Điều này, dẫn đến khó khăn trong việc quản lý người tham gia, đặc biệt khi thay đổi đơn vị, thay đổi nơi cư trú. Việc giám định hồ sơ thanh toán chi phí KCB BHYT thực hiện thủ công trên hồ sơ giấy với tỷ lệ khoảng 20% tổng số hồ sơ đề nghị thanh toán. Tình trạng lạm dụng chi trả BHXH diễn ra thường xuyên. Từ đó dẫn đến việc báo cáo quyết toán, thanh tra hàng năm đều thực hiện thủ công.
Nghị quyết 68/2013/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện chính sách pháp luật BHYT, tiến tới BHYT toàn dân; Nghị Quyết 36a/NQ-CP về Chính phủ điện tử; Nghị quyết 19-2017/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020 đặt ra lộ trình, bước đi trong hiện đại hóa ngành BHXH. Các Nghị quyết đưa ra yêu cầu thực hiện giao dịch điện tử trong giải quyết chính sách BHXH, BHYT; Giảm 1/3 số lần và giảm 50% số giờ thực hiện TTHC trong lĩnh vực thu BHXH, BHYT; Liên thông hệ thống CNTT giữa BHXH và cơ sở KCB nhằm cải tiến TTHC trong KCB; Nâng cao hiệu quả công tác giám định BHYT; Xây dựng và áp dụng kiến trúc Chính phủ điện tử 2.0; Nghiên cứu cấp thẻ BHYT điện tử, tích hợp thông tin BHXH, BH thất nghiệp; Xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu điện tử để quản lý BHXH tập trung và đồng bộ trong phạm vi cả nước.
Ngày 22/5/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 714/QĐ-TTg ban hành danh mục 6 cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia cần được ưu tiên triển khai tạo nền tảng phát triển CPĐT, trong đó có CSDL quốc gia về bảo hiểm; Quyết định số 274/QĐ-TTg ngày 12/03/2019 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án Cổng Dịch vụ công quốc gia cũng xác định CSDL quốc gia về bảo hiểm là cơ sở dữ liệu quan trọng để cung cấp dịch vụ định danh cho Cổng Dịch vụ công quốc gia.
Hiện nay, với 90% người dân tham gia BHYT, hơn 15 triệu người tham gia BHXH, tiến tới thực hiện BHXH toàn dân theo tinh thần cải cách chính sách BHXH thì việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT, hiện đại hóa BHXH để nâng cao chất lượng phục vụ người tham gia và hưởng BHXH, BHYT đã trở thành yêu cầu cấp thiết.
Quyết tâm mạnh mẽ
Trước yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ và thực tế đòi hỏi của quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT – trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh xã hội. Mục tiêu hiện đại hóa để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách BHXH đã trở thành quyết tâm chính trị của toàn ngành BHXH Việt Nam với mong muốn đổi mới, phát triển toàn diện, công khai minh bạch và đem lại sự hài lòng của người dân.
Với yêu cầu và mục tiêu đề ra, BHXH Việt Nam đã tập trung triển khai mạnh mẽ ứng dụng CNTT trong hầu hết các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu: giao dịch điện tử trong công tác thu BHXH, BHYT, BH thất nghiệp và cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; giám định điện tử chi phí KCB BHYT thông qua Hệ thống thông tin giám định BHYT; số hóa hồ sơ lưu trữ; các phần mềm phục vụ công tác tài chính – kế toán, quản lý văn bản… Hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị CNTT được trang bị đầy đủ và vận hành hiệu quả.
Hệ thống phần mềm nghiệp vụ quan trọng được thiết lập theo mô hình tập trung dữ liệu tại Trung ương để quản lý các mảng nghiệp vụ quan trọng của ngành; Đầu tư đồng bộ hạ tầng, phần mềm và cơ sở dữ liệu để cấp duy nhất một số định danh cho người tham gia BHXH, BHYT, BH thất nghiệp trong Hệ thống cấp số định danh và Quản lý BHYT hộ gia đình và Thuê dịch vụ CNTT CSDL hộ gia đình tham gia BHYT.
Về ứng dụng CNTT phục vụ người dân, doanh nghiệp, BHXH Việt Nam tiếp tục vận hành Hệ thống giao dịch điện tử tập trung để quản lý, theo dõi trực tuyến công tác tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả kết quả thủ tục hành chính về lĩnh vực BHXH, BHYT, BH thất nghiệp, đảm bảo việc thực hiện thủ tục hành chính tại BHXH các tỉnh, thành phố được công khai minh bạch, chuyên nghiệp đáp ứng mục tiêu cải cách thủ tục hành chính mà Ngành đề ra.
Tính đến hết năm 2019, toàn ngành đã rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính từ 115 thủ tục xuống còn 28. Công tác cải cách hành chính toàn ngành BHXH đạt được nhiều kết quả đột phá, đã tăng cường sửa đổi, nâng cấp các phần mềm hỗ trợ tạo điều kiện tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận, giảm thời gian kê khai, giải quyết thủ tục BHXH. Nổi bật nhất là việc phối hợp với Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam triển khai ứng dụng CNTT trong công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH được người dân đánh giá cao. Tổng thể mức độ ứng dụng CNTT của BHXH Việt Nam tiếp tục đứng thứ nhất trên bảng xếp hạng năm 2018 của 7 cơ quan thuộc Chính phủ.
Thành tựu được ghi nhận
Đến nay BHXH Việt Nam đã cung cấp được 23 trong 28 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4; tổng số hồ sơ thực hiện giao dịch điện tử là khoảng 50 triệu hồ sơ điện tử giao dịch qua mạng.
Toàn bộ ứng dụng CNTT ngành BHXH đã được triển khai theo kiến trúc Chính phủ điện tử được xây dựng theo Khung kiến trúc Chính phủ điện tử do Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành. Trung tâm Ðiều hành hệ thống CNTT của ngành BHXH được triển khai xây dựng và bắt đầu vận hành là kết quả tổng hợp từ một quãng thời gian dài hệ thống BHXH đồng thời phát triển hạ tầng kỹ thuật, nhân lực và đẩy mạnh ứng dụng CNTT…
Năm 2018 được coi là năm đột phá với nhiều hoạt động phục vụ định hướng hiện đại hóa ngành BHXH được triển khai quyết liệt và có hiệu quả, như: hệ thống một cửa điện tử tập trung trên cơ sở phần mềm “Tiếp nhận và quản lý hồ sơ”; Cổng thông tin điện tử BHXH Việt Nam là điểm truy cập duy nhất của BHXH Việt Nam trên môi trường Internet cung cấp đầy đủ thông tin hoạt động, chủ trương, chính sách pháp luật về BHXH, BHYT, tiếp nhận các yêu cầu giao dịch điện tử, khai thác thông tin, dữ liệu về BHXH, BHYT của tổ chức, cá nhân.
Đặc biệt, hệ thống thông tin giám định BHYT đã được đưa vào vận hành, kết nối gần 100% cơ sở KCB BHYT từ tuyến xã đến Trung ương trên phạm vi toàn quốc để thực hiện quản lý KCB, giám định và thanh toán BHYT. Ðồng thời, ngành BHXH đã tạo lập xong cơ sở dữ liệu cho hộ gia đình tham gia BHYT với thông tin của 92,6 triệu dân tương ứng với 24,3 triệu hộ gia đình toàn quốc.
Việc cập nhật, công bố, công khai TTHC được thực hiện theo đúng quy định, tất cả các TTHC đều được niêm yết công khai tại trụ sở BHXH cấp tỉnh, BHXH cấp huyện; thực hiện công bố công khai danh mục các TTHC trên Cổng Thông tin điện tử của BHXH Việt Nam, Trang tin điện tử của BHXH các tỉnh. Đồng thời, cập nhật lên cơ sở dữ liệu Quốc gia về TTHC, đảm bảo cho các tổ chức, cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận, thuận tiện khi cần giải quyết công việc. Bên cạnh đó, thường xuyên rà soát toàn bộ cơ sở dữ liệu TTHC của BHXH Việt Nam trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC để kịp thời cập nhật, chuẩn hoá các TTHC còn hiệu lực, TTHC mới ban hành và xoá bỏ các TTHC đã hết hiệu lực theo đúng quy định.
Việc tiếp nhận và trả kết quả giải quyết TTHC được duy trì thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả theo 03 hình thức: qua bộ phận “Một cửa” tại trụ sở cơ quan BHXH, qua giao dịch điện tử (doanh nghiệp có thể nộp hồ sơ 24 giờ/ngày, 07 ngày/tuần) và qua dịch vụ bưu chính công ích (doanh nghiệp không phải trả phí). Qua đó, đã giúp tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, người lao động khi tham gia giao dịch với cơ quan BHXH. Đồng thời, đưa vào vận hành Hệ thống Một cửa điện tử tập trung để quản lý, theo dõi trực tuyến toàn bộ quy trình nghiệp vụ, từ việc tiếp nhận hồ sơ đến thụ lý giải quyết, trả kết quả giải quyết TTHC, cảnh báo tình trạng hồ sơ sắp đến hạn, chậm muộn… Đến nay, có trên 90% đơn vị, doanh nghiệp đã thực hiện giao dịch hồ sơ điện tử; có 63/63 tỉnh, thành phố đã triển khai nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính công ích. Đồng thời, BHXH Việt Nam đã phối hợp với Tổng Công ty Bưu điện thí điểm việc ứng dụng CNTT trong chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng (tại Hải Dương, Hà Nội), trong thời gian tới sẽ tiếp tục nhân rộng trên toàn quốc.
Đồng thời, trên nền tảng ứng dụng CNTT những năm vừa qua, ngành BHXH đang khẩn trương xây dựng hệ sinh thái 4.0 phục vụ người dân và doanh nghiệp với các dịch vụ: dịch vụ tin nhắn (SMS); dịch vụ thanh toán trực tuyến; ứng dụng BHXH trên thiết bị di động; hệ thống Chatbot hỗ trợ khách hàng (trả lời chính sách BHXH, BHYT tự động bằng trí tuệ nhân tạo, tăng tính tương tác cao với người tham gia, cung cấp thông tin đóng, hưởng BHXH, BHYT và dự tính mức hưởng nhằm phục vụ người dân tốt hơn); Phân tích, khai thác được lượng dữ liệu rất lớn của Ngành trên BIGDATA; thiết lập Fanpage truyền thông trên hệ thống mạng xã hội; cung cấp tất cả các dịch vụ công có thể lên cấp độ 4.
Năm 2018, Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao về tư tưởng cải cách, biện pháp cải cách và hiệu quả cải cách của Ngành BHXH, tác động rõ rệt tới kinh tế xã hội đất nước, tạo công khai, minh bạch, rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan BHXH và người dân được hưởng các chế độ. Ghi nhận, BHXH Việt Nam là một trong những đơn vị cải cách sớm nhất, đẩy mạnh ứng dụng CNTT, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về BHXH, chia sẻ thông tin, giám sát việc thanh toán, chi trả BHXH, BHYT. Ngành BHXH đã xây dựng được cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, trong khi cơ sở dữ liệu về dân cư nói chung chưa có. Quan trọng nhất là Ngành BHXH đã công khai, minh bạch, rõ ràng trong quản lý điều hành và đặc biệt mang tính chất phục vụ với người dân, người tham gia các chính sách BHXH, kiểm soát cơ sở KCB để khắc phục những kẽ hở có thể lợi dụng trong thanh toán chi phí KCB BHYT.
Đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB) trong bảng xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam, BHXH là lĩnh vực thăng hạng nhiều nhất, tới 81 bậc, đạt vị trí 86/190 nền kinh tế trong năm 2018. Hiện, cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm đang quản lý thông tin của hơn 94 triệu người dân với 06 thông tin cơ bản, trong đó có 82 triệu hồ sơ của người tham gia BHYT. Đặc biệt, BHXH Việt Nam cũng sẵn sàng chia sẻ dữ liệu này với các cơ quan khác, tiến tới tích hợp, đồng bộ hóa với cơ sở dữ liệu dân cư của quốc gia, riêng với ngành thuế, hai bên đang hợp tác trao đổi thường xuyên.
Báo cáo đánh giá, xếp hạng an toàn thông tin cho Cổng/Trang thông tin điện tử cơ quan nhà nước năm 2019 – Portal Security Index (PSI) vừa được Bộ thông tin và truyền thông công bố, BHXH Việt Nam lọt vào top 3 về mức độ bảo đảm an toàn thông tin cho Cổng/Trang thông tin điện tử.
Bài học của thành công
Qua quá trình ứng dụng CNTT, hiện đại hóa ngành BHXH có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm, cụ thể:
Thứ nhất, phải xây dựng Kiến trúc Chính phủ điện tử và lộ trình triển khai chuyển đổi số, lộ trình xây dựng CSDL quốc gia để xác định việc cần ưu tiên thực hiện. Quá trình cải cách thủ tục hành chính và đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ phải song hành với ứng dụng CNTT.
Thứ hai, việc chuyển đổi số phải tiến hành bắt đầu từ khâu tiếp nhận dữ liệu đầu vào cho nghiệp vụ và trả dữ liệu đầu ra cho người dân, doanh nghiệp trên các phương tiện CNTT; tức là phải bắt đầu từ khâu giao dịch điện tử và trả kết quả bằng giao dịch điện tử, tiếp theo quy trình nghiệp vụ phải thực hiện trên điện tử. Đặc biệt, phải triển khai triệt để việc số hóa và sử dụng dữ liệu điện tử, kể cả hồ sơ cũ để đảm bảo khép kín quy trình.
Thứ ba, việc hoàn thiện CSDL là việc thường xuyên, liên tục; muốn quản trị tốt bằng CNTT thì phải có dữ liệu tốt; phải có đội ngũ chuyên môn kỹ thuật sâu và hiểu biết nghiệp vụ. Đặc biệt, phải có quyết tâm mạnh mẽ của người đứng đầu và sự vào cuộc mạnh mẽ của cả bộ máy.
Thứ tư, đầu tư cho CNTT của ngành BHXH trong giai đoạn vừa qua là rất lớn và đã đem lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, để quản lý, phục vụ đối tượng có hiệu quả cao, cần phải có sự liên thông, kết nối và bổ sung các thông tin, dữ liệu quản lý của các ngành, các cấp khác để làm dữ liệu xử lý. Do đó, việc thực hiện lộ trình đầu tư, nâng cấp hạ tầng CNTT của ngành cần phải thận trọng, phù hợp với tốc độ phát triển hạ tầng CNTT của các ngành, các cấp khác để bảo đảm hiệu quả.
Thách thức hiện hữu và nỗ lực vươn lên phục vụ người dân
Thách thức
Thứ nhất, sự cần thiết phải bảo đảm an toàn CSDL, vì nguồn dữ liệu ngành BHXH là 1 trong 6 CSDL quốc gia. Nguy cơ về mất an toàn thông tin là nguy cơ mang tính chất hiện hữu và lâu dài, không thể giải quyết ngày một, ngày hai.
Thứ hai, lưu ý về trình độ cán bộ sử dụng CNTT. CNTT được ứng dụng trong cải cách hành chính đang phát triển rất nhanh nên sự cập nhật, tự đào tạo của từng cán bộ phải tiếp tục được nâng lên thêm một bước; đây là vấn đề đã có sự quan tâm nhưng vẫn chưa lấp đầy được khoảng cách theo yêu cầu của công việc ngành BHXH đòi hỏi.
Thứ ba, hệ thống thông tin giám định BHYT hoạt động hiệu quả, mang lại lợi ích vô cùng to lớn nhưng cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa từ phía đối tác, đó là ngành y tế, các cơ sở KCB. Việc kết nối, liên thông dữ liệu tới tận cơ sở KCB đã được đảm bảo gần như 100% nhưng một số cơ sở KCB chưa gửi dữ liệu điện tử đúng chuẩn theo quy định, một số hồ sơ không được cập nhật ngay khi bệnh nhân ra viện,…
Nỗ lực vươn lên phục vụ người dân
Để vượt qua thách thức, nỗ lực vươn lên phục vụ người dân, BHXH Việt Nam phải thường xuyên, liên tục có biện pháp để quản lý và đảm bảo an toàn, an ninh thông tin. Đồng thời, chú ý quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ ứng dụng CNTT cho tất cả cán bộ, đặc biệt là cán bộ vận hành hệ thống, trực tiếp thực hiện công việc CNTT, cán bộ CNTT ở địa phương; nâng cao nhận thức cho người dùng cuối, bởi nguy cơ mất an toàn thông tin xuất phát từ chính người dùng cuối.
BHXH Việt Nam cần tiếp tục đầu tư công nghệ theo đúng quy chuẩn để có hệ thống thông tin hiện đại và đảm bảo an toàn thông tin. Xây dựng các quy định về phối hợp ứng cứu và ứng phó với các sự cố an toàn thông tin, có quy trình phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan như cơ quan ứng cứu khẩn cấp máy tính, Cục An toàn thông tin để có sự phối hợp trên diện rộng.
Lãnh đạo Ngành BHXH cần có sự quan tâm toàn diện về ứng dụng CNTT, hiện đại hóa ngành BHXH để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách BHXH, đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Tiếp tục mục tiêu xây dựng ngành BHXH hiện đại, chuyên nghiệp, hướng tới sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp năm 2019 và những năm tiếp theo, BHXH Việt Nam cần tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp tập trung vào các nhiệm vụ nghiên cứu, hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ; tăng cường thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra chuyên ngành; kiểm soát chi phí KCB BHYT tại các cơ sở KCB có biểu hiện nghi vấn; kịp thời xử lý và kiến nghị xử lý các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, BHYT; tăng cường đổi mới công tác tuyên truyền cả về nội dung và hình thức theo hướng chuyên nghiệp, đúng trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng nhóm đối tượng; tiếp tục rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức theo tinh thần Nghị quyết số 39/NQ-TW ngày 17/04/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hoàn thiện Đề án “Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của BHXH Việt Nam theo hướng nâng cao chất lượng, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” trình Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII về cải cách chính sách BHXH, hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội; Cải cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống BHXH. Tăng cường công tác phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính, thuế, lao động để nâng cao hiệu quả quản lý đối tượng tham gia BHXH và thực thi chính sách BHXH. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về BHXH. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả các lĩnh vực BHXH, BH thất nghiệp; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách. Tiếp tục hiện đại hóa quản lý BHXH, đầu tư phát triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện BHXH, BH thất nghiệp. Kịp thời ngăn chặn tình trạng gian lận, trục lợi chính sách BHXH, BH thất nghiệp. kiến tạo và nâng cao niềm tin trong nhân dân, doanh nghiệp về hoạt động của Ngành BHXH, về tính ưu việt, nhân văn của các chính sách BHXH, BHYT của Đảng, Nhà nước vì mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội bền vững cho mọi người dân./
Theo baohiemxahoi.gov.vn