Dù tháng 3 mới vào mùa dịch của thủy đậu nhưng những ngày gần đây đã xuất hiện những ca thủy đậu. Vì thế, những chị em đang mang thai nói riêng và những chị em phụ nữ nên đi khám và tiêm phòng thủy đậu. Việc bị mắc phải bệnh thủy đậu trong thời gian mang thai là điều không tốt, thậm chí nguy hiểm đến thai nhi.. Tiến sĩ bác sĩ Lê Thị Thu Hà, Bệnh viện Từ Dũ sẽ tư vấn bạn về mức độ nguy hiểm của bệnh này:
Triệu chứng lâm sàng (hay còn là những dấu hiệu ban đầu) chúng ta có thể chú ý và nhận biết như: sốt, mệt mỏi và nổi bóng nước khắp người, đường kính bóng nước từ 2 – 5mm.
Theo nghiên cứu dịch tễ học, tại Anh và Mỹ, tần suất bệnh thủy đậu trên thai kỳ khoảng 3/1000. Tại Mỹ, có ít nhất 3 triệu thai phụ mỗi năm, như vậy có khoảng 9.000 trường hợp thai phụ mắc bệnh thủy đậu mỗi năm.
Tại bệnh viện Từ Dũ, hàng năm với hơn 70.000 trường hợp đến khám thai, trong đó có một số không nhỏ thai phụ bệnh thủy đậu. Theo nhiều nghiên cứu khác nhau tần suất mắc bệnh thủy đậu nguyên phát (mắc bệnh lần đầu tiên) trong thai kỳ khoảng 5/10.000 – 7/10.000.
Những người phụ nữ mang thai nhiễm bệnh thủy đậu có nguy cơ viêm phổi do virus varicella 10 – 20%, trong số người viêm phổi do virus này nguy cơ tử vong lên đến 40%.
Tỉ lệ tử vong ở thai phụ mắc bệnh thủy đậu cao nhất trong số những người lớn nhiễm bệnh này.
- Trong 3 tháng đầu, đặc biệt tuần lễ thứ 8 đến 12 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị Hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 0.4%. Biểu hiện thường gặp nhất của hội chứng thủy đậu bẩm sinh là sẹo ở da. Những bất thường khác có thể xảy ra là tật đầu nhỏ, bệnh lý võng mạc, đục thủy tinh thể, nhẹ cân, chi ngắn, chậm phát triển tâm thần.
- Trong 3 tháng giữa, đặc biệt tuần 13 – 20 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 2%. Sau tuần lễ thứ 20 thai kỳ, hầu như không ảnh hưởng trên thai.
- Nếu người mẹ nhiễm bệnh trong vòng 5 ngày trước sinh và 2 ngày sau sinh, bé sơ sinh dễ bị bệnh thủy đậu lan tỏa do mẹ chưa có đủ thời gian tạo kháng thể truyền cho thai nhi trước sinh. Tỉ lệ tử vong bé sơ sinh lúc này lên đến 25 – 30% số trường hợp bị nhiễm.
- Thai phụ cần được nghỉ ngơi, uống nhiều nước, ăn thức ăn lỏng dễ tiêu hóa, nếu sốt có thể dùng thuốc hạ sốt paracetamol. Giữ vệ sinh thân thể, tránh làm vỡ những bóng nước vì có nguy cơ bội nhiễm.
- Vì thai phụ có nguy cơ cao do biến chứng của bệnh thủy đậu: nên dùng varicella – zoster immune globulin (VZIG) đối với những thai phụ có phơi nhiễm với bệnh mà những thai phụ này chưa từng bị bệnh thủy đậu hoặc chủng ngừa .
- Việc dùng VZIG không phòng ngừa được nhiễm trùng bào thai, hội chứng thủy đậu bẩm sinh cũng như bệnh thủy đậu sơ sinh
- Như vậy, việc dùng VZIG cho thai phụ chỉ phòng ngừa biến chứng nặng ở mẹ chứ không giúp ích cho thai nhi hoặc trẻ sơ sinh.
- Để dự phòng biến chứng cho trẻ, nên dùng VZIG cho bé sơ sinh.
- Đối với thai phụ nhiễm bệnh thủy đậu diễn tiến nặng có nguy cơ viêm phổi nên được tư vấn dùng Acyclovir đường tĩnh mạch để giảm nguy cơ cho cả mẹ và thai. Acyclovircó vai trò ức chế sự phát triển của virus nên ức chế sự phát triển của bệnh.
- Nên chủng ngừa bệnh thủy đậu khi còn bé hoặc ít nhất 3 tháng trước khi mang thai.
- Khi mang thai nên tránh tiếp xúc với người bệnh thủy đậu.
- Giữ vệ sinh môi trường và vệ sinh thân thể tốt.
Ngoài ra những bà mẹ đang có kế hoạch mang thai, sinh em bé nên có kế hoạch dinh dưỡng cụ thể để tăng sức đề kháng, đảm bảo đủ chất dinh dưỡng cho bé yêu cũng như đủ sức khỏe để mang thai. Bên cạnh đó, những bà mẹ tương lai nên tham gia đăng ký gói bảo hiểm sức khỏe với những điều kiện bổ sung cho thế chộ thai sản để đảm bảo quyền lợi cho mình trong khi sinh đẻ. Để biết thêm chi tiết, khách hàng có thể liên hệ tới trụ sở Bảo Hiểm Bảo Việt gần nhất đối với mình hoặc liên hệ tới số điện thoại: 0966.831.332 để được biết thêm chi tiết và tư vấn cụ thể.