Giới thiệu về đất nước Phần Lan
I. KHÁI QUÁT CHUNG
– Tên nước: Cộng hòa Phần Lan
– Quốc khánh: 06/12/1917 (Ngày tuyên bố độc lập)
– Thủ đô: Helsinki, có 565.000 dân
– Các thành phố lớn: Espoo, Tampere, Vantaa, Turku.
– Vị trí địa lý: Nằm trong khu vực Bắc Âu, phía Đông và Đông Nam giáp Nga, phía Bắc giáp Na Uy, phía Tây giáp Thuỵ Điển, phía Nam và Tây Nam là vịnh Phần Lan, biển Baltic và vịnh Bothnia.
– Khí hậu: Tuy gần Bắc cực, nhưng nhờ có dòng hải lưu nóng Gulf Stream, nên nhiệt độ trung bình cao hơn các nước khác trên cùng vĩ tuyến, trung bình mùa hè từ 13-17 oC, mùa đông từ -3 oC đến -14 oC.
– Diện tích: 338.145 km2, rừng chiếm 69%, đất canh tác 8%. Phần Lan có khoảng 188.000 hồ (với diện tích từ 500 m2 trở lên, tổng cộng chiếm gần 10% diện tích); gần 180.000 hòn đảo (trong đó gần 100.000 hòn đảo ở trong đất liền).
– Dân số: gần 5,3 triệu người (17 người/km2). Số lượng Việt kiều khoảng 4500 người.
– Tôn giáo: 83% theo đạo Tin lành dòng Lu-thơ và khoảng hơn 1% theo đạo Cơ đốc chính thống Orthodox.
– Ngôn ngữ: 91,6% số dân có tiếng Phần Lan là tiếng mẹ đẻ; 5,5% có tiếng Thuỵ Điển; tiếng Sami là tiếng mẹ đẻ của khoảng 1.700 người.
– Đơn vị tiền tệ: Phần Lan là nước Bắc Âu duy nhất đã tham gia vào Liên minh Tiền tệ Châu Âu từ 01/01/1999 và chính thức sử dụng Euro là đồng tiền duy nhất từ 01/03/2002.
– GDP: 185,9 tỷ USD (2007)
– GDP/capita: 35.500 USD (2007)
– Tốc độ tăng trưởng: 3,9% (2007)
– Lạm phát: 2,7% (2007)
– Lực lượng lao động: 2,68 triệu người (2007)
– Tỷ lệ thất nghiệp: 6,6% (2007)
– Các ngành kinh tế mũi nhọn: Công nghiệp gỗ giấy, luyện kim, cơ khí, đóng tàu, hoá chất, điện tử, viễn thông.
– Kim ngạch xuất khẩu: 92,62 tỷ USD (năm 2007), chiếm 1/3 GDP.
– Các sản phẩm xuất khẩu chính: máy móc thiết bị, gỗ xẻ, giấy, bột giấy, hóa chất, sắt thép.
– Các thị trường xuất khẩu chính: Đức (11,3%), Thuỵ Điển (10,5%), Nga (10,1%), Anh (6,5%), Mỹ (6,5%), Hà Lan (5,1%).
– Kim ngạch nhập khẩu: 76,36 tỷ USD (năm 2007)
– Các sản phẩm nhập khẩu chính: thực phẩm, xăng dầu, hóa chất, thiết bị giao thông, sắt thép, máy móc, đồ may mặc, ngũ cốc.
– Các đối tác nhập khẩu chính: Đức (15,6%), Nga (14%), Thuỵ Điển (13,7%), Hà Lan (6,6%), Trung Quốc (5,4%), Anh (4,7%), Đan Mạch (4,5%)
– Thể chế: Cộng hòa Đại nghị
– Các nhà lãnh đạo chủ chốt hiện nay:
+ Tổng thống: Bà TARJA HALONEN, sinh ngày 24/12/1943, Đảng XHDC, nhậm chức từ 01/03/2000, nhiệm kỳ 2 từ 01/03/2006 (2006-2012).
+ Thủ tướng: Ông MATTI VANHANEN, sinh ngày 04/11/1955, Đảng Trung tâm, nhậm chức từ 24/06/2003, nhiệm kỳ 2 từ 19/04/2007 (2007-2011).
+ Chủ tịch Quốc hội: Ông SAULI NIINISTÖ, sinh ngày 24/08/1948, Đảng Liên minh dân tộc, nhậm chức từ 24/04/2007.
+ Bộ trưởng Ngoại giao: Ông ALEXANDER STUBB, sinh ngày 01/04/1968, Đảng Liên minh dân tộc, nhậm chức từ 04/04/2008.
II. LỊCH SỬ
Phần Lan hình thành quốc gia rất muộn. Trong hơn 650 năm (từ 1155-1809) Phần Lan bị Thuỵ Điển đô hộ. Năm 1809, Thuỵ Điển bị thua trong cuộc chiến tranh với Nga hoàng và Phần Lan trở thành công quốc tự trị thuộc Nga suốt hơn 100 năm. Sau cách mạng Tháng Mười Nga, Liên Xô trao độc lập cho Phần Lan. Ngày 06/12/1917, Phần Lan tuyên bố độc lập và năm 1919 hiến pháp hiện nay của Phần Lan được thông qua và Phần Lan trở thành một nước Cộng hòa. Năm 1939, cuộc chiến tranh “Mùa Đông” nổ ra giữa Liên Xô và Phần Lan. Phần Lan thất bại và phải ký hoà ước với Liên Xô năm 1940 chấp nhận nhượng cho Liên Xô 10% lãnh thổ phía Đông. Khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, Phần Lan liên minh với Đức tấn công Liên Xô nhằm lấy lại phần đất bị mất. Năm 1944, Phần Lan rút khỏi cuộc chiến tranh và theo “Thoả ước đình chiến” phải bồi thường 300 triệu USD (theo tỉ giá thời đó) bằng hàng hoá được trả trong vòng 6 năm và phải nhượng thêm cho Liên Xô phần đất Petsamo trên bờ biển Bắc cực. Năm 1948, Phần Lan ký Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Giúp đỡ lẫn nhau với Liên Xô đồng thời thực hiện chính sách trung lập, đứng ngoài vòng tranh chấp của các siêu cường.
III. CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
1. Thể chế
– Hiến pháp Phần Lan ban hành ngày 17/07/1917, thông qua năm 1919 và được sửa đổi năm 2000 quy định Phần Lan theo chế độ Cộng hoà. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội và Tổng thống. Quyền hành pháp thuộc về Tổng thống và Chính phủ.
– Người đứng đầu nhà nước là Tổng thống, được bầu theo chế độ phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 6 năm. Tổng thống hiện nay là bà Tarja Halonen (nhậm chức Tổng thống từ năm 2000 và năm 2006 được bầu lại nhiệm kỳ 2).
– Quốc hội Phần lan có một Viện với 200 nghị sĩ, nhiệm kỳ 4 năm, được bầu theo phổ thông đầu phiếu. Chủ tịch Quốc hội hiện nay là Ông Sauli Niinisto (Đảng Liên minh dân tộc).
Kết quả bầu cử Quốc hội Phần Lan ngày 18/3/2007 như sau:
– Đảng Trung tâm : 51 ghế (23,1%)
– Đảng Liên minh dân tộc : 50 ghế (22,3%)
– Đảng XHDC : 45 ghế (21,4%)
– Đảng Liên minh cánh tả : 17 ghế (8,8%)
– Đảng Liên đoàn xanh : 15 ghế (8,5%)
– Đảng nhân dân Thụy Điển : 9 ghế (4,9% )
– Đảng Dân chủ thiên chúa giáo : 7 ghế (4,5 %)
– Đảng người Phần Lan thực sự : 5 ghế (4%)
___________
200 ghế
– Ngày 19/4/2007, Tổng thống Cộng hòa Phần Lan đã bổ nhiệm nội các thứ 70 của nước này. Nội các mới gồm 19 bộ trưởng do Thủ tướng Matti Vanhanen (Chủ tịch Đảng Trung tâm) lãnh đạo: trong đó Đảng Trung tâm có 7 Bộ trưởng (không tính Thủ tướng); Đảng Liên minh dân tộc có 8 Bộ trưởng; ngoài ra Đảng Liên đoàn xanh và Đảng nhân dân Thụy Điển mỗi đảng có 2 Bộ trưởng. Đảng Xã hội dân chủ trở thành Đảng đối lập.
2. Các đảng phái chính trị lớn nhất
– Đảng XHDC (SPD): thành lập 1899 là Đảng lớn nhất đại diện cho tầng lớp công nhân, trí thức, tiểu chủ.
– Đảng Trung tâm: thành lập 1906, đại diện quyền lợi cho gia cấp nông dân, phái chính trị cánh trung tâm. Chủ tịch hiện nay là Thủ tướng Matti Vanhanen.
– Đảng Liên minh dân tộc hay còn gọi là Đảng Bảo thủ: thành lập 1918, đại diện cho giới công nghiệp, tài chính ủng hộ kinh tế thị trường tự do.
IV. KINH TẾ, XÃ HỘI
Từ một nước bị tàn phá sau chiến tranh và phải trả một khoản bồi thường chiến tranh lớn giữa những năm 1940, Phần Lan đã tập trung vào xây dựng đất nước và đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế có sức cạnh tranh và tiềm năng phát triển hàng đầu thế giới với nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn truyền thống, có chuyên môn hoá cao như:
– Công nghiệp gỗ giấy: Do điều kiện tự nhiên với nhiều rừng (bình quân 4 ha rừng/người, đứng đầu thế giới và gấp 15 lần mức trung bình của các nước Tây Âu), công nghiệp gỗ giấy luôn là một ngành quan trọng của nền kinh tế Phần Lan với 80% sản phẩm dành cho xuất khẩu. Hàng năm, Phần Lan sản xuất khoảng 9 triệu tấn bột giấy và đứng thứ hai thế giới sau Canada về xuất khẩu giấy, tổng giá trị khoảng gần 4 tỉ USD/năm.
– Luyện kim: luyện đồng rất nổi tiếng. Phần Lan là một trong những nước đứng đầu Tây Âu về sản xuất đồng 65.000 tấn, kẽm 175.000 tấn/năm.
– Đóng tàu và vận tải: chủ yếu đóng các loại tàu đặc biệt như tàu phá băng, tàu chở khách, tàu nghiên cứu biển, dàn khoan dầu.
– Cơ khí: một số sản phẩm nổi tiếng là dây chuyền sản xuất giấy của công ty Metso và thang máy của công ty Kone. Phần Lan cung cấp khoảng 1/5 máy xén giấy trên thế giới.
– Điện tử, viễn thông: phát triển cao từ những năm cuối 1990.
– Công nghiệp hoá chất, dược phẩm cũng phát triển cao.
Về nông nghiệp, Phần Lan có 2.504 ngàn hécta đất trồng trọt (chiếm 8% diện tích), tự túc 85% lương thực.
Thương mại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Phần Lan. Năm 2007, xuất khẩu đạt 92,62 tỷ USD, chiếm 1/3 GDP. Ba ngành xuất khẩu quan trọng của trong nền kinh tế Phần Lan là: Các sản phẩm thép, máy móc và thiết bị vận tải (chiếm 31,1% xuất khẩu); Thiết bị quang học và điện tử (chiếm 28% xuất khẩu); và sản phẩm giấy và gỗ (chiếm 20,3 % xuất khẩu). Công nghiệp Phần lan phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu nguyên liệu thô, máy móc và phụ kiện cần thiết cho sản xuất các sản phẩm tiêu thụ trong nước cũng như cho xuất khẩu.
Phần Lan theo đuổi hình thái “nhà nước phúc lợi” trong đó y tế, giáo dục miễn phí, những người bị thiệt thòi được xã hội quan tâm. Phần Lan là nước có bình đẳng giới cao nhất thế giới và chênh lệch giàu nghèo thuộc loại thấp nhất trên thê giới. Cũng như các nước Bắc Âu khác, Phần Lan rất quan tâm tới việc bảo vệ môi trường và có nước sinh hoạt được đánh giá là sạch nhất thế giới. Trong nhiều năm gần đây Phần Lan cũng được xếp hạng là đất nước có tỷ lệ tham nhũng thấp nhất .
Chính phủ Phần Lan luôn chú trọng gắn giáo dục với nghiên cứu và sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế, trong đó hiện nay tập trung vào công nghệ thông tin. Theo xếp hạng của Ủy ban Sáng tạo Châu Âu (EIS), Phần Lan được xếp là nền kinh tế sáng tạo thứ ba thế giới, vượt xa mức trung bình của Châu Âu và Mỹ, được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2004) đánh giá là đất nước có “văn hóa sáng tạo”, trong đó NOKIA là một điển hình. Phần Lan có nền giáo dục tiên tiến, theo kết quả của các cuộc kiểm tra PISA, kết quả học tập của học sinh Phần Lan độ tuổi 15 luôn được đánh giá là một trong những nước xuất sắc nhất. Chỉ riêng năm 2005, ngành giáo dục Phần Lan đã đón 120 đoàn đại biểu từ 30 quốc gia đến tìm hiểu về hệ thống giáo dục của nước này. Cũng chỉ trong năm 2005, với sự quan tâm của dư luận quốc tế, Phần Lan đã tổ chức 3 cuộc hội thảo quốc tế về chủ đề “PISA và giáo dục Phần Lan” với sự tham gia của 500 đại diện từ 57 quốc gia trên khắp thế giới.
V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI, AN NINH
Rút ra được những bài học kinh nghiệm từ quá khứ của lịch sử. Trong nhiều thập kỷ qua, Phần Lan luôn theo đuổi đường lối đối ngoại trung lập tích cực; giữ cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, các khối; không tham gia các khối quân sự; ủng hộ và thúc đẩy cho các hoạt động vì hoà bình, giải trừ quân bị, làm giảm căng thẳng tình hình quốc tế; ủng hộ đối thoại giữa các nước và khu vực.
Hiện nay, Phần Lan là thành viên tích cực của EU và ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng như các nước Bắc Âu, Nga và các nước ở vùng biển Ban-tích. Phần Lan cũng đang tham gia vào chương trình Đối tác vì Hoà bình (Partnership for Peace) với NATO và vẫn để ngỏ cửa cho việc tham gia NATO (tuy nhiên phần lớn dân Phần Lan muốn tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại trung lập). Năm 2008, Phần Lan là Chủ tịch Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE). Chính phủ Phần Lan cũng chú trọng phát triển quan hệ với châu Á, nhất là với các nền kinh tế đang nổi lên để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Phần Lan thâm nhập thị trường, phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh.
Phần Lan trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 1950; Liên Hợp Quốc và Hội đồng Bắc Âu năm 1955; Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển (OECD) năm 1969; liên kết với Khối mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) năm 1961 và trở thành thành viên đầy đủ năm 1986; ký hiệp định Tự do thương mại với Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) năm 1973. Phần Lan gia nhập Liên hiệp châu Âu (EU) từ 01/01/1995 và EMU từ 01/01/1999. Ngoài ra, Phần Lan cũng là thành viên của Tổ chức Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và nhiều ngân hàng phát triển trên thế giới như ADB…
Phần Lan luôn coi trọng chính sách viện trợ và hợp tác phát triển, coi đây là một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình. Thông qua viện trợ phát triển, Phần Lan mong muốn hỗ trợ các nước nghèo cải thiện điều kiện kinh tế xã hội, qua đó tăng cường khả năng thu hút đầu tư và thương mại của các nước này (“aid for trade”), hướng tới xoá bỏ tình trạng nghèo đói trên thế giới. Ngày 18/10/2007, Chính phủ Phần Lan đã thông qua Chương trình chính sách phát triển (Development Policy Programme) mới với chủ đề “Toward a Sustainable and Just World Community” (Hướng tới một cộng đồng thế giới công bằng và bền vững). Mục tiêu chính của chính sách phát triển mới này là xoá đói giảm nghèo và thúc đẩy phát triển bền vững phù hợp với các mục tiêu Thiên Niên kỷ.
Năm 2007, viện trợ phát triển của Phần Lan đạt 0,44% GDP. Phần Lan cam kết tăng viện trợ phát triển lên 0,51% GDP năm 2010 và 0,7% GDI năm 2015. Hiện nay, hợp tác phát triển của Phần Lan tập trung vào 8 nước đối tác dài hạn gồm: Mozambique, Tanzania, Ethiopia, Zambia, Kenia ở châu Phi; Nicaragua ở châu Mỹ La tinh; Việt Nam và Nepal ở châu Á. Dựa trên chiến lược xóa đói giảm nghèo của mỗi quốc gia này, Phần Lan tập trung vào hỗ trợ tối đa 3 lĩnh vực hoặc chương trình phát triển tại mỗi nước.
TÓM TẮT QUAN HỆ VIỆT NAM – PHẦN LAN
I. QUAN HỆ NGOẠI GIAO
Phần Lan lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 25/01/1973, từ đó đến nay Phần Lan luôn duy trì một chính sách hợp tác, hữu nghị. Đại sứ quán Phần Lan tại Hà Nội được thành lập năm 1974. Việt Nam mở Đại sứ quán tại Helsinki vào cuối năm 2005.
Hai bên đã có nhiều cuộc tiếp xúc và trao đổi đoàn cấp cao. Gần đây nhất là chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Phần Lan, Bà Tarja Halonen từ ngày 21-23/02/2008 (đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của một nguyên thủ quốc gia kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao) và chuyến thăm của Bộ trưởng Lao động Phần Lan, Bà Tarja Cronberg từ ngày 26-28/03/2008. Về phía Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thăm Phần Lan nhân dịp dự Cấp cao ASEM-6 (tháng 9/2006); Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng thăm chính thức Phần Lan từ 11-14/6/2008.
II. QUAN HỆ KINH TẾ
1. Viện trợ không hoàn lại
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1973, Phần Lan luôn ủng hộ ta trong thời kỳ khó khăn, bị bao vây, cấm vận trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay và “không áp đặt các điều kiện về chính trị trong chính sách viện trợ”. Phần Lan đã xoá nợ trên 40 triệu USD cho Việt Nam.
– Từ 1974 đến 1993: Phần Lan đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 180 triệu USD với các dự án điển hình trong thời gian này là:
+ Nhà máy sửa chữa tàu biển Phà Rừng tại Hải Phòng (từ năm 1985 với tổng số vốn là 46 triệu USD).
+ Xây dựng và cải tạo hệ thống cấp nước Hà Nội
+ Cải tạo, mở rộng hệ thống cấp nước ở Hải Phòng
– Từ 1994 đến 2006: Phần Lan đã viện trợ cho Việt Nam gần 200 triệu USD (với 32 dự án), mở rộng sự giúp đỡ sang nhiều lĩnh vực khác: Lâm nghiệp, phát triển nông thôn, xoá đói giảm nghèo, văn hoá, năng lượng. Số tiền viện trợ không hoàn lại tập trung vào làm 6 dự án mà hai bên đã thoả thuận.
+ Chương trình Hợp tác lâm nghiệp Việt Nam-Phần Lan tại Chợ Đồn – Bắc Kạn nhằm khôi phục rừng cạn kiệt.
+ Phát triển nông thôn ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.
+ Điều tra, đánh giá các di tích mỹ thuật cổ (Bộ Văn hoá-Thông tin, Viện Mỹ thuật Hà Nội).
+ Lập chiến lược thoát nước và vệ sinh đô thị.
+ Hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em tại thành phố Vinh, Nghệ An.
+ Nâng cao năng lực xây dựng chính sách và quản lý của Bộ Thương mại.
Các dự án do Phần Lan hỗ trợ nói chung đều mang lại hiệu quả cao, điển hình là Chương trình Phát triển nông thôn tổng hợp Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, Chương trình cấp nước tại thành phố Hải Phòng đã được thực hiện rất thành công, được cả hai bên Việt Nam và Phần Lan đánh giá cao.
Năm 2007, tại châu Á, Việt Nam là một trong hai nước tiếp tục được coi là đối tác chính về hợp tác phát triển với Phần Lan. Định hướng ưu tiên về hợp tác giữa hai nước hướng tới mục tiêu xóa đói giảm nghèo và gồm ba lĩnh vực: (i) Phát triển nông thôn tổng hợp bao gồm cả lâm nghiệp, (ii) Cấp thoát nước và xử lý chất thải, (iii) Nâng cao năng lực và hỗ trợ cải cách. Hiện nay, Phần Lan đang chuyển dần từ hợp tác theo dự án song phương sang hỗ trợ cho ngân sách thông qua chương trình 135. Trong giai đoạn năm 2007-2009, Phần Lan sẽ hỗ trợ 17 triệu Euro cho ta (trong đó có 2,6 triệu Euro hỗ trợ kỹ thuật) cho Chương trình 135 giai đoạn II. Tại hội nghị CG tháng 12/2007, Phần Lan cam kết viện trợ 31,7 triệu USD cho Việt Nam trong năm 2008 (tăng 7,6 triệu USD so với mức cam kết viện trợ 24,1 triệu USD cho năm 2007), đứng thứ 7 trong khối các nước EU.
Ngoài kênh hợp tác song phương, Phần Lan cũng trợ giúp cho Việt Nam thông qua các tổ chức đa phương như EC, LHQ; các tổ chức tài chính quốc tế như ADB, WB; các tổ chức phi chính phủ và các chương trình hợp tác khu vực của Ủy ban sông Mê-kông, AITCV, ILO…
2. Vốn vay tín dụng ưu đãi
Bên cạnh nguồn viện trợ không hoàn lại, Phần Lan cũng cung cấp tín dụng ưu đãi cho Việt Nam. Việc cấp tín dụng này sẽ được thực hiện thông qua các hiệp định tín dụng khung ký giữa Bộ Tài chính và các ngân hàng Phần Lan.
Tháng 6/2001 và tiếp theo là tháng 6/2005, Quốc hội Phần Lan đã thông qua việc sửa đổi điều kiện và điều khoản cung cấp tín dụng ưu đãi cho Việt Nam làm cho có tính ưu đãi hơn trước: thời gian vay dài hơn (12,5 năm gồm 2 năm ân hạn hoặc 14 năm gồm 3 năm ân hạn), không ràng buộc tỉ lệ hàng hóa và dịch vụ xuất xứ từ Phần Lan ít nhất là 50%… Chính sách của Chính phủ Phần Lan về hỗ trợ toàn bộ phí bảo hiểm tín dụng (trong trường hợp mức phí này lớn hơn 6% tổng giá trị khoản vay) đã tạo điều kiện cho các dự án vay vốn và đẩy nhanh tiến độ triển khai.
Đến nay tín dụng ưu đãi của Phần Lan đã sử dụng được cho 09 dự án (02 dự án mua trạm biến thể của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Cấp nước Tam Kỳ, Cấp nước Thái Bình, 02 trạm bơm nước mưa Hải Phòng, Cầu Rào 2, Điện khí hóa nông thôn, Nâng cấp hệ thống cung cấp và điều khiển lưới điện Miniscada, Trang thiết bị bệnh viện đa khoa Thanh Hóa). Nhiều dự án đang trong giai đoạn chuẩn bị để sử dụng nguồn tín dụng này như: Cấp nước thị xã Hưng Yên, Bắc Kạn, Tam Hiệp, thành phố Vinh; xây dựng nhà máy xử lý rác thải rắn Vĩnh Long và Bình Dương; nâng cấp các bệnh viện đa khoa Cao Bằng, Việt Tiệp, Đà Nẵng; thoát nước Điện Biên Phủ, Pleiku…
Tổng số các dự án được Chính phủ hai nước đưa vào danh sách ưu tiên về tín dụng ưu đãi hiện nay (trừ 04 dự án đã kết thúc) là trên hai mươi dự án với tổng số vốn ODA khoảng hơn 100 triệu USD, trong đó 04 dự án đang triển khai thực hiện, đã giải ngân, các dự án khác còn lại đang trong giai đoạn chuẩn bị thực hiện.
3. Thương mại
So với nhiều nước EU, quan hệ thương mại Việt Nam – Phần Lan còn ở mức khiêm tốn. Năm 2007, kim ngạch thương mại hai chiều dự kiến đạt 170 triệu USD.
Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Phần Lan gồm: hải sản, cà phê, cao su, giầy dép các loại và hàng dệt may, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, xe đạp và phụ tùng xe đạp… Việt Nam nhập khẩu từ Phần Lan thiết bị máy, phương tiện vận tải, thiết bị thông tin (chiếm 80-85% kim ngạch), nguyên phụ liệu dệt may da, chất dẻo nguyên liệu, sắt thép các loại, bột giấy…
Một số các sản phẩm của Phần Lan trên thị trường Việt Nam: điện thoại Nokia, điện thoại Vertu, vợt tennis Wilson, tiền xu của Việt Nam hiện được đúc tại Phần Lan, cá hồi Sapa, kẹo Xyliton, phần mềm Linux, máy hàn Kemppi…
Buôn bán với Phần Lan còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam (0,15 – 0,16%) cũng như trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Phần Lan (0,07 – 0,09%).
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Phần Lan từ năm 2001 đến 2006 và 11 tháng năm 2007.
(Đơn vị triệu USD)
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
|
Xuất khẩu |
19,9 |
24,2 |
28,2 |
41,9 |
57,2 |
68,9 |
92,5 |
Nhập khẩu |
24,7 |
35,4 |
33,5 |
53,6 |
42,7 |
82,3 |
78,5 |
Tổng kim ngạch |
44,6 |
59,6 |
61,7 |
95,5 |
99,9 |
151,2 |
171 |
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
4. Đầu tư
Cho tới tháng 12/2007, đầu tư trực tiếp (FDI) của Phần Lan vào Việt Nam còn rất nhỏ khoảng hơn 60 triệu USD (riêng năm 2007 đạt 17,1 triệu USD) với 6 dự án:
– Công ty Trách nhiệm hữu hạn DYNOCHEM Việt Nam, sản xuất keo công nghiệp sử dụng cho chế biến gỗ, da với tổng vốn đầu tư 15,3 triệu USD. Dự án đi vào hoạt động năm 2000 và sử dụng khoảng 100 lao động.
– Công ty liên doanh An Huệ với mục tiêu sản xuất kinh doanh hàng may mặc và các sản phẩm khác thuộc ngành may có tổng vốn đầu tư 01 triệu USD.
– Nhà máy sản xuất bao bì HUHTAMAKI 100% vốn của Phần Lan khánh thành 5/2004. Đầu tư giai đoạn 1 là 20 triệu Euro (2004-2006). (Dự án này được đăng ký đầu tư qua một công ty con ở Hà Lan của tập đoàn Huhtamaki)
– Công ty Trách nhiệm hữu hạn NOVOMOK Việt Nam, sản xuất và phát triển phần mềm, với tổng vốn đầu tư 50.000 USD.
– Công ty trách nhiệm hữu hạn Niemen Tehtaat Việt Nam, sản xuất các sản phẩm gỗ, các sản phẩm kim loại khác, với tổng vốn đầu tư 800.000 USD.
– Dự án Công ty Trách nhiệm hữu hạn thiết bị hàng hải MacGregor-Vinashin, chế tạo linh kiện kim loại, thiết bị nâng hạ và bốc xếp, với tổng vốn đầu tư 16,3 triệu USD.
Từ năm 2003, Đại sứ quán Phần Lan tại Hà Nội có 1 quỹ địa phương là 500.000 Euro/năm do Đại sứ quyết định cho từng dự án nhỏ và vừa với quy mô khoảng từ 30.000 Euro đến 50.000 Euro cho mỗi dự án.
III. QUAN HỆ KHÁC (GIÁO DỤC, KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, LAO ĐỘNG, VĂN HOÁ, DU LỊCH)
1. Cộng đồng người Việt Nam tại Phần Lan:
Cộng đồng người Việt Nam tại Phần Lan hiện có khoảng 4.500 người, trong đó có 1657 người vẫn mang quốc tịch Việt Nam; đa số sang Phần Lan trong những năm 1980 dưới hình thức vượt biên và nhận quy chế tị nạn, số còn lại đi theo đường đoàn tụ gia đình, kết hôn. Nhìn chung đa số người Việt tại Phần Lan đều chăm chỉ tập trung làm ăn và luôn hướng về Tổ quốc, một số ít vẫn sống nhờ trợ cấp xã hội. Chính giới Phần Lan đánh giá cao tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo của người Việt Nam và những đóng góp hiệu quả đối với nước sở tại. Người Việt ở Phần Lan sống rải rác ở hầu khắp các tỉnh, không tập trung ở một số khu vực như những nơi khác. Đây cũng chính là lý do khiến sự gắn kết giữa bà con người Việt chưa cao. Tuy vậy, Hội Người Việt Nam tại Phần Lan đã được thành lập và tổ chức Đại hội lần thứ I vào tháng 7/2007.
2. Hợp tác giáo dục:
Cho tới nay, có khoảng trên 100 học sinh, sinh viên từ Việt Nam sang Phần Lan du học, chủ yếu dưới dạng tự túc. Đại đa số sinh viên theo học các ngành công nghệ thông tin và quản trị kinh doanh. Tháng 11/2006, Bộ Ngoại giao Phần Lan đã quyết định đưa Việt Nam (là nước duy nhất ở Châu Á) vào danh sách nước được nhận tài trợ giai đoạn 2 của Chương trình trao đổi giáo dục Bắc-Nam-Nam (North-South-South Higher Education Institution Network Programme). Tổng số vốn cho giai đoạn này là 4,5 triệu Euro. Theo chương trình này, Chính phủ Phần Lan sẽ tài trợ trao đổi sinh viên và giáo viên giữa các trường đại học của Phần Lan và các đối tác Việt Nam ở bậc đại học, cao học và có thể mở ra cho cả tiến sĩ với thời gian từ 3-6 tháng, dài nhất là một năm trong toàn bộ chương trình học đại học. Chương trình cũng tài trợ cho các khóa học tập trung (intensive courses) từ 1-10 tuần do các trường đại học của cả hai bên đồng tổ chức. Hiện nay, mới có một số ít trường ở Việt Nam thiết lập được quan hệ với các đối tác Phần Lan. Trung tâm hợp tác quốc tế của Bộ Giáo dục Phần Lan (CIMO) hiện đang tiến hành soạn thảo báo cáo phân tích về giáo dục đại học của Việt Nam, nhằm đánh giá những khả năng các trường đại học của Phần Lan tuyển sinh viên Việt Nam sang học tập tại Phần Lan, mở các cơ sở/dịch vụ giáo dục đại học tại Việt Nam và hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học của nước ta. CIMO đã tổ chức 2 Hội thảo du học Phần Lan tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vào đầu tháng 12/2007, và cũng đã làm việc với Bộ giáo dục và Đào tạo về khả năng hợp tác giáo dục giữa hai nước.
3. Hợp tác khoa học và công nghệ:
Trong năm 2007, Việt Nam và Phần Lan đã làm việc và khẳng định mong muốn thúc đẩy hợp tác khoa học công nghệ giữa hai nước trong thời gian tới. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Phần Lan tháng 2/2008, hai bên đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác KH&CN Việt Nam – Phần Lan thay thế cho Bản ghi nhớ đã ký năm 1995. Hai bên cũng đã xác định được một số lĩnh vực ưu tiên hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ như năng lượng, lâm nghiệp, công nghệ môi trường, công nghệ thông tin và truyền thông và đang xem xét, xây dựng Chương trình hợp tác trong giai đoạn 2 năm 2009-2010.
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, hiện nay công ty Viễn thông Nokia đã và đang hoạt động kinh doanh hiệu quả trên thị trường Việt Nam. Đây là hãng sản xuất thiết bị di động nổi tiếng trên thế giới và có mặt tại Việt Nam từ năm 1996. Nokia rất thành công trong việc cung cấp sản phẩm điện thoại cầm tay và chiếm khoảng 57% thị phần. Ngoài ra, Nokia cũng đã tham gia một số dự án cung cấp thiết bị mạng lưới cho Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tổng công ty Viễn thông quân đội (VIETTEL).
4. Hợp tác lao động:
Hợp tác lao động là một lĩnh vực đang được tích cực thúc đẩy trong quan hệ Việt Nam-Phần Lan. Ngày 26-28/03/2008, Bộ trưởng Lao động Phần Lan Tarja Cronberg đã thăm và làm việc với Bộ LĐTBXH nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực lao động trong bối cảnh Phần Lan có kế hoạch nới lỏng việc tiếp nhận lao động từ bên ngoài để giải quyết vấn đề thiếu lao động trong nước. Hai bên đã thống nhất thực hiện chương trình thí điểm tuyển chọn khoảng 20-24 lao động tại Hà Nội đến làm việc tại vùng Nam Ostrobothnia, Phần Lan.
Ngày 13-22/04/2008, Đoàn đại biểu Lãnh đạo và doanh nghiệp vùng Nam Ostrobothnia đã sang thăm và làm việc tại Việt Nam từ nhằm tìm hiểu khả năng hợp tác về đào tạo tay nghề và xuất khẩu lao động có trình độ của Việt Nam sang làm việc tại Phần Lan. Trong chuyến thăm, đoàn đã phối hợp với trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội trực tiếp tuyển chọn 22 lao động có tay nghề (thợ hàn, thợ điện và thợ mộc). Theo dự kiến, số lao động này sẽ sang Phần Lan làm việc vào khoảng tháng 10/2008 theo dạng lao động nhập cư với thời gian ít nhất là một năm. Số lao động này sẽ được hưởng mọi điều kiện về lương và bảo hiểm xã hội như lao động Phần Lan và phía Bạn sẽ có chương trình dạy ngôn ngữ, văn hoá và những kiến thức cần thiết khác giúp lao động của ta sớm hoà nhập vào xã hội Phần Lan.
5. Hợp tác văn hóa, du lịch:
Để tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Phần Lan vào Việt Nam du lịch và đầu tư, từ 2005 Việt Nam đã miễn thị thực cho công dân Phần Lan vào Việt Nam trong vòng 15 ngày.
Năm 2007, lượng khách du lịch Phần Lan vào Việt Nam đạt 6 nghìn người (tăng 12% với năm 2006), vẫn là một con số rất khiêm tốn mặc dù Việt Nam là địểm du lịch đã được người Phần Lan biết tới nhiều trong một vài năm gần đây. Nguyên nhân chính hạn chế số du khách Phần Lan vào Việt Nam là do giá vé máy bay cao, chưa có đường bay trực tiếp. Những điểm đến tại Việt Nam được khách du lịch Phần Lan yêu thích gồm: Hà Nội, Hạ Long, Huế, Hội An, Nha trang, Sapa và Mũi Né (Phan Thiết)… Đáng chú ý là hầu hết khách du lịch Phần Lan đến Việt Nam đều yêu thích, đánh giá cao đất nước và con người Việt Nam, và rất nhiều người trong số họ đã hoặc có kế hoạch quay trở lại du lịch Việt Nam.
Trao đổi văn hoá, mặc dù vẫn còn rất khiêm tốn, có thể kể đến triển lãm tranh nghệ thuật Việt Nam tại một số bảo tàng nghệ thuật của Phần Lan như triển lãm tranh lụa với tên gọi “Hoa sen – Nghệ thuật đến từ Việt Nam” (tháng 1-10/2005); triển lãm nghệ thuật quốc tế cho thanh thiếu niên lần thứ XIII tại Phần Lan vào tháng 9/2007 với đề tài Môi trường.
Giới thiệu về sản phẩm bảo hiểm du lịch châu âu đi Phần Lan
Bảo hiểm du lịch đi Phần Lan là sản phẩm bảo hiểm cần thiết đối với mỗi khách hàng khi họ sang Phần Lan để du lịch, du học, công tác, thăm thân… ở Phần Lan. Bởi vì nó sẽ giúp khách hàng chi trả cho những rủi ro không mong muốn trong quá trình khách hàng ở Phần Lan. Những rủi ro không thể lường trước hết được, và sảy ra một cách bất ngờ như: tai nạn cá nhân khi khách hàng ở nước ngoài, đau ốm đột xuất khi khách hàng ở nước ngoài, hành lý gặp rủi ro, chuyến bay bị trì hoãn liên tục kéo dài,…. Chi phí ở Phần Lan thường khá đắt đỏ so với ở Việt Nam. Do vậy những rủi ro kể trên có thể khiến khách hàng tiêu tốn một khoản không nhỏ tài chính của mình nếu không tham gia bảo hiểm cho chuyến đi.
Hơn thế nữa, trong quá trình khách hàng làm visa tại Đại sứ quán Phần Lan thì việc làm bảo hiểm xin visa châu âu đi Phần Lan là cần thiết để hoàn tất quá trình làm visa của mình trước khi đi ra nước ngoài. Do đó, khách hàng cần sớm chuẩn bị đầy đủ các thông tin cần thiết để làm bảo hiểm cho mình và những người đi cùng tại Bảo Hiểm Bảo Việt.
Khách hàng có thể mua bảo hiểm du lịch châu âu online bằng cách gọi điện tới số điện thoại hotline 0966.831.332 để được tư vấn miễn phí và làm bảo hiểm một cách tốt nhất cho mình. Tư vấn viên bảo hiểm sẽ tư vấn cụ thể cho khách hàng, sau đó tiến hành cấp chứng nhận bảo hiểm tới địa chỉ mà khách hàng yêu cầu. Khách hàng cũng có thể tới địa chỉ Bảo Hiểm Bảo Việt gần nhất với mình để làm bảo hiểm. Ví dụ nếu khách hàng ở Hà Nội thì có thể liên hệ tới Bảo Việt Hà Nội để làm bảo hiểm.
Các thông tin cần thiết mà khách hàng cần cung cấp để làm bảo hiểm như sau:
Họ và tên:
Ngày tháng năm sinh:
Địa chỉ liên hệ:
Số hộ chiếu:
Ngày đi và ngày về:
Nước đến:
Hạng bảo hiểm:
Liên hệ tư vấn và làm bảo hiểm du lịch châu âu: 0966.831.332