Ngày 2-7-2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã ký Lệnh số 04/2012/L-CTN công bố Luật Bảo hiểm tiền gửi, đã được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ ba thông qua ngày 18-6-2012. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2013.
Luật Bảo hiểm tiền gửi đã thể chế hóa quan điểm, chủ trương và chính sách của Ðảng và Nhà nước, thể hiện tính đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt Nam, phù hợp thể chế chính trị của Việt Nam đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992; bảo đảm phù hợp điều kiện kinh tế, xã hội ở nước ta. Ðặc biệt là các điều kiện về sự phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn, sự phát triển của hệ thống ngân hàng, mức độ hiểu biết, thói quen tiết kiệm của người dân. Luật Bảo hiểm tiền gửi đã kế thừa những quy định phù hợp qua thực tiễn thực thi pháp luật bảo hiểm tiền gửi, bảo đảm tính kế thừa trong quản lý, đồng thời khắc phục được những thiếu sót, bất cập của pháp luật hiện hành về bảo hiểm tiền gửi; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của hệ thống pháp luật ngân hàng, tạo điều kiện tăng cường sự phối hợp, hoạt động hiệu quả của các cấu phần trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia. Mặt khác, Luật Bảo hiểm tiền gửi được ban hành trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia và hướng dẫn phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả của các tổ chức quốc tế, bảo đảm sự tương thích nhất định với các chuẩn mực chung của quốc tế.
Luật Bảo hiểm tiền gửi đã đạt một bước tiến trong việc xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi, đó là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Khoản 2 Ðiều 8); Ðồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi của cơ quan này. Cùng với đó, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng thanh tra về bảo hiểm tiền gửi (Ðiều 35).
Luật Bảo hiểm tiền gửi được xây dựng theo Mô hình bảo hiểm tiền gửi chi trả với quyền hạn mở rộng. Bên cạnh nhiệm vụ chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tính và thu phí nộp bảo hiểm của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, Luật tiếp tục trao cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi chức năng giám sát từ xa trên cơ sở các thông tin nhận được từ Ngân hàng Nhà nước và tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm phát hiện và báo cáo Ngân hàng Nhà nước xử lý kịp thời những rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng, những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Ngân hàng Nhà nước hay tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ. Quy định này bảo đảm cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và xác định rõ giới hạn của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo đảm an toàn hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia.
Ðể khắc phục những hạn chế của quy định pháp luật về chủ thể được bảo hiểm tiền gửi, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định chỉ bảo hiểm tiền gửi của người gửi tiền là cá nhân mà không bảo hiểm cho tiền gửi của hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Hơn nữa, việc bảo hiểm tiền gửi cho cả tổ chức không phù hợp với mục tiêu bảo vệ những người gửi tiền nhỏ lẻ, thiếu thông tin. Mặt khác, tiền gửi của các tổ chức mang tính luân chuyển cao, chủ yếu nhằm mục đích thanh toán chứ không nhằm mục đích gửi tiền tiết kiệm. Vì vậy, việc quy định bảo hiểm cho tiền gửi của tổ chức là không phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do đó, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định chủ thể được bảo hiểm tiền gửi là cá nhân (Ðiều 18).
Về mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi, kế thừa các quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nước do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là pháp nhân, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí. Ðể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải có được những thông tin cần thiết về các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Vì vậy, Luật Bảo hiểm tiền gửi đã quy định tại Chương V về Hoạt động thông tin, báo cáo. Theo đó quy định cụ thể về trách nhiệm báo cáo và công bố thông tin của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và vấn đề cung cấp thông tin của Ngân hàng Nhà nước.
Nhằm tránh rủi ro hao tổn quỹ bảo hiểm tiền gửi, gây tác động xấu đến hiệu quả của hệ thống bảo hiểm tiền gửi, Luật Bảo hiểm tiền gửi chỉ cho phép “Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và gửi tiền tại Ngân hàng Nhà nước” (Ðiều 31) mà không cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi được mở tài khoản và gửi tiền tại tổ chức tín dụng nhà nước như quy định của pháp luật trước đây về bảo hiểm tiền gửi.
Ðể bảo đảm tính linh hoạt khi áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức trả tiền bảo hiểm trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh, Luật không quy định một mức phí hay một khung phí cứng mà trao thẩm quyền cho Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước. Căn cứ vào khung phí bảo hiểm tiền gửi, Ngân hàng Nhà nước quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này.
Về thời điểm tổ chức bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định: “Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền”.
Việc xác định thời điểm trả tiền bảo hiểm phù hợp thể hiện cam kết của Nhà nước đối với người dân trong việc bảo đảm chi trả ngay lập tức khoản tiền bảo hiểm trong hạn mức bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đổ vỡ nhằm củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, hạn chế hiện tượng rút tiền hàng loạt tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Qua đó, giảm thiểu tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Ðể thực hiện Luật Bảo hiểm tiền gửi sau khi có hiệu lực thi hành dự kiến sẽ có một nghị định do Chính phủ ban hành, ba văn bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành; một văn bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành và một văn bản liên tịch do Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành.
VŨ HOÀNG LONG
Bảo Hiểm Bảo Việt