Tái cơ cấu nền kinh tế và những vấn đề đặt ra

Tái cơ cấu nền kinh tế là quá trình sắp xếp, cơ cấu lại nền kinh tế với quy mô lớn hơn và tốc độ nhanh hơn để đạt mục tiêu nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đây là đòi hỏi khách quan của quá trình vận động và phát triển, trong đó tại một thời điểm nhất định, nền kinh tế cần phải có sự thay đổi để chuyển sang một trạng thái mới tốt hơn và ở trình độ cao hơn. Trong những năm qua, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế đã đạt được những kết quả bước đầu tích cực, tuy nhiên, còn nhiều hạn chế và thách thức cần được giải quyết trong giai đoạn tới.

Những thành tựu nổi bật trong giai đoạn 2011 – 2016

Thực hiện chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế, nhiều giải pháp đã được Chính phủ, các bộ, ngành đề ra, theo đó, mục tiêu tổng quát đến năm 2020 được xác định là “Thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo lộ trình và bước đi phù hợp để đến năm 2020 cơ bản hình thành mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bảo đảm chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế”.

Cùng với đó, 4 lĩnh vực chủ yếu được xác định cần tập trung đẩy mạnh tái cơ cấu đến năm 2020, bao gồm: Duy trì môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi, ổn định; Thực hiện quyết liệt, hiệu quả 3 trọng tâm tái cơ cấu kinh tế, (tái cơ cấu đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN); tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD)); Tái cơ cấu các ngành sản xuất và dịch vụ, điều chỉnh chiến lược thị trường, tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của DN và của nền kinh tế; Tái cơ cấu, xây dựng và phát triển cơ cấu vùng kinh tế hợp lý.

Đến nay, việc thực hiện 4 lĩnh vực nêu trên đã mang lại những kết quả bước đầu tích cực. Cụ thể:

Một là, kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng kinh tế từng bước hồi phục và được cải thiện, lạm phát dần được kiểm soát. Có thể nói, ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn đà suy thoái của nền kinh tế là thành tựu nổi bật nhất của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế trong giai đoạn 2011 – 2016.

Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được đảm bảo. Các chỉ tiêu về chất lượng tăng trưởng như tốc độ tăng năng suất lao động (NSLĐ) và đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) đã được cải thiện. Tốc độ tăng NSLĐ giai đoạn 2011 – 2015 ở mức trung bình 4,3%, cao hơn so với 3,4% giai đoạn 2006 – 2010; đóng góp của TFP được nâng từ mức -4,5% giai đoạn trước lên 29% trong giai đoạn 2011 – 2015.

Hai là, việc thực hiện ba trọng tâm tái cơ cấu kinh tế đã đạt được một số kết quả nhất định.

– Tái cơ cấu đầu tư công: Thể chế quản lý đầu tư công được ban hành, qua đó nâng cao kỷ cương trong đầu tư công, thay đổi cách thức xây dựng và phân bổ vốn thông qua kế hoạch đầu tư trung hạn, thực hiện kế hoạch đầu tư công gắn với nguồn vốn, ưu tiên tập trung vào những dự án hạ tầng kinh tế – xã hội cấp bách, huy động nhiều hơn nguồn vốn tư nhân và đầu tư nước ngoài cho phát triển cơ sở hạ tầng.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5 năm (2011 – 2015) theo giá hiện hành đạt 5.617,1 nghìn tỷ đồng, bằng 31,7% GDP (giai đoạn 2006 – 2010, bằng 39,2%); năm 2016, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng 33% GDP. Qua đó, đảm bảo mục tiêu đề ra  với tổng mức đầu tư xã hội khoảng 30 – 35% GDP.

Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước/tổng đầu tư xã hội trong một số ngành tư nhân có khả năng tham gia đã giảm dần, trong khi đó vốn đầu tư từ khu vực tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng lên. Giai đoạn  2011 – 2016, tỷ trọng đầu tư nhà nước đạt mục tiêu từ 35 – 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội như chủ trương đề ra.

Hiệu quả đầu tư được cải thiện thể hiện qua hệ số ICOR giảm dần trong giai đoạn 2011 – 2015 so với giai đoạn trước. Điều này cho thấy, việc sử dụng vốn của Việt Nam đang hiệu quả hơn. Từ năm 2012, hệ số ICOR đã giảm dần. ICOR giai đoạn 2011 – 2015 đạt 6,91, giảm so với giai đoạn 2006 – 2010 là 6,96.

– Về tái cơ cấu thị trường tài chính và các TCTD: Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình giám sát chặt chẽ và sắp xếp lại các TCTD yếu kém, đến nay đã có 09 TCTD được sáp nhập vào TCTD khác; 04 TCTD được mua lại (không bao gồm 03 ngân hàng được mua lại với giá 0 đồng), triển khai xử lý nợ xấu, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, bảo đảm an toàn hệ thống. Nhờ đó, thị trường tài chính ổn định, an toàn, thanh khoản được đảm bảo.

Các TCTD đạt tỷ lệ an toàn vốn trên mức tối thiểu theo quy định (9%) và đáp ứng đầy đủ các tỷ lệ về khả năng chi trả và tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. Kỷ cương, kỷ luật trên thị trường tiền tệ và trong lĩnh vực ngân hàng được tăng cường, góp phần làm lành mạnh và giữ vững an toàn môi trường kinh doanh.

Lãi suất cho vay trung bình của các TCTD giảm từ 17,9%/năm (năm 2011) xuống còn 9,08% (năm 2015) và còn 6,4%-7,2%/năm (năm 2016). Nhìn chung, cơ cấu tín dụng đang dần tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, DN vừa và nhỏ, góp phần hỗ trợ có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng tín dụng dần được cải thiện. Năm 2016, dự kiến tổng phương tiện thanh toán tăng 16,47%, huy động vốn của các TCTD tăng 16,88%, giúp ổn định thanh khoản, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế và đảm bảo tỷ lệ tín dụng/huy động ở mức an toàn.

– Về tái cơ cấu DNNN: Tái cơ cấu DNNN đã đạt được những kết quả tích cực. Thể chế quản lý DNNN tiếp tục được kiện toàn, nhiều chính sách quản lý tài chính và sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đã được ban hành. Cùng với đó, các giải pháp nhằm thoái vốn đầu tư ngoài ngành; cổ phần hóa; minh bạch hóa các hoạt động quản lý DNNN; chuẩn hóa các loại hình DNNN; đổi mới quản trị cũng được quán triệt thực hiện. Cụ thể:

Giai đoạn từ 2010 – 2016, số lượng DNNN đã giảm mạnh, tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt và cơ bản thực hiện được vai trò, nhiệm vụ được giao. Cụ thể là từ 1.500 DNNN (năm 2010) đầu tư dàn trải ở nhiều ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, đã giảm xuống còn 652 DN (năm 2016) tập trung hoạt động ở các lĩnh vực then chốt, đảm bảo cân đối vĩ mô cho nền kinh tế, công ích, an ninh, quốc phòng.

Cùng với tái cơ cấu, nhiều cơ chế chính sách về cổ phần hóa cũng được triển khai tích cực theo hướng công khai, minh bạch, kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DNNN. Kết quả là giai đoạn 2011 – 2016 cả nước đã thực hiện cổ phần hóa 564 DN với tổng giá trị thực tế gần 800 nghìn tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là trên 213 nghìn tỷ đồng, qua đó về cơ bản hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa DNNN theo đề án tái cơ cấu DNNN đề ra…

Việc thoái vốn nhà nước khỏi 5 lĩnh vực nhạy cảm (chứng khoán, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư) được thực hiện mạnh mẽ. Tính riêng giai đoạn 2011 – 2015, kết quả thoái vốn của DNNN đạt 11.036 tỷ đồng, thu được 10.742 tỷ đồng. Cụ thể như: Lĩnh vực chứng khoán 506 tỷ đồng, thu về 437,7 tỷ đồng; Lĩnh vực tài chính – ngân hàng là 6.071 tỷ đồng, thu về 5292,9 tỷ đồng; Lĩnh vực bảo hiểm là 540,2 tỷ đồng, thu về 591,1 tỷ đồng; Lĩnh vực bất động sản là 3.534,8 tỷ đồng, thu về 3,972,6 tỷ đồng; Lĩnh vực các quỹ đầu tư là 459 tỷ đồng, thu về 447,2 tỷ đồng.

Ba là, tái cơ cấu ngành kinh tế đã đạt được một số kết quả theo 3 hướng chính: (i) Tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ; (ii) Tổ chức lại sản xuất theo chuỗi liên kết; (iii) Tăng cường xuất khẩu và xúc tiến thương mại, qua đó hình thành cơ cấu ngành, nội bộ ngành hợp lý hơn, giá trị sản xuất tăng nhanh.

Tái cơ cấu nông nghiệp đã chuyển biến và phát triển toàn diện hơn theo hướng khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, ứng dụng khoa học – công nghệ và mức độ cơ giới hóa được nâng lên; An ninh lương thực được đảm bảo;

Tái cơ cấu công nghiệp được triển khai với việc ban hành các chính sách như tái cơ cấu ngành Công Thương, chiến lược phát triển công nghiệp, Chương trình phát triển và nâng cấp cụm ngành và chuỗi giá trị, Chương trình Phát triển sản phẩm quốc gia… Tái cơ cấu ngành dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm có năng lực cạnh tranh.

Việc thực hiện các giải pháp trên đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Đóng góp của sản xuất công nghiệp và dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn, năm 2016, tăng trưởng công nghiệp đóng góp 2,59 điểm phần trăm, dịch vụ đóng góp 2,67 điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng.

Trong khi đó, tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp chỉ còn 0,22 điểm phần trăm. Cùng với đó, tỷ trọng ngành nông, lâm, nghiệp, thủy sản giảm dần, chiếm 16,32% (năm 2016), ngành Công nghiệp và dịch vụ tiếp tục tăng lên, lần lượt chiếm tỷ trọng 32,72% và 39,73% tổng giá trị sản phẩm quốc dân.

Bốn là, tái cơ cấu kinh tế vùng đã được chú ý thực hiện: Quy hoạch phát triển kinh tế vùng được điều chỉnh phù hợp hơn theo hướng phát huy lợi thế vùng với việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch 6 vùng kinh tế – xã hội, 4 vùng kinh tế trọng điểm. Chính sách tập trung đầu tư và thu hút đầu tư vào 5 khu kinh tế ven biển và 8 khu kinh tế cửa khẩu trong giai đoạn 2011 – 2015 đã tác động và góp phần di chuyển nguồn lực giữa các vùng, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương kém lợi thế hơn.

Năm 2016, tăng trưởng công nghiệp đã đóng góp 2,59 điểm phần trăm, dịch vụ đóng góp 2,67 điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng. Trong khi đó, tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp chỉ còn 0,22 điểm phần trăm.

Năm là, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng bước đầu có tác động tích cực đến quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế. Việc tham gia và thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đã tạo những cú hích quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút FDI tại Việt Nam, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Vẫn chưa tạo được những đột phá về chất

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế vẫn chưa tạo được những kết quả thực chất. Nguyên nhân chủ yếu là do một số tồn tại và hạn chế sau:

Một là, mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào các yếu tố đầu vào, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế chậm được cải thiện.

Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng. Trong giai đoạn 2011 – 2015, việc gia tăng đầu vào đóng góp khoảng 71% vào tăng trưởng. Vốn con người, công nghệ, hiệu quả quản lý của Nhà nước (TFP) chỉ đóng góp khoảng 29% (Trong khi đó, của Ấn Độ là 49%, Thái Lan và Philippines 70%, Malaysia 64%).

Chuyển dịch và hiện đại hóa cơ cấu ngành kinh tế có xu hướng chậm lại. Tỷ trọng của giá trị gia tăng ngành chế tạo trong GDP đang sụt giảm đáng lo ngại, từ mức trung bình khoảng 19% trong (giai đoạn 2006 – 2010) xuống còn 15% (giai đoạn 2011 – 2015); thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.

Bên cạnh đó, hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ thấp và chất lượng FDI thấp, một số dự án để lại nhiều ô nhiễm môi trường, gây hậu quả nặng nề.

Hai là, kinh tế vĩ mô chưa thực sự bền vững: Cân đối NSNN tiếp tục khó khăn, thâm hụt ngân sách kéo dài, nợ công tăng nhanh, tỷ trọng chi đầu tư phát triển giảm mạnh, chỉ còn 15,2% trong tổng chi ngân sách năm 2015, ảnh hưởng đến quy mô đầu tư công vào các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, giáo dục – đào tạo, công nghệ.

Ba là, việc thực hiện 3 trọng tâm tái cơ cấu nền kinh tế vẫn còn nhiều vấn đề quan trọng chưa được thực hiện, cụ thể như:

– Tái cơ cấu đầu tư công còn hạn chế: Cơ cấu đầu tư nội bộ ngành, lĩnh vực chưa hợp lý, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa chi đầu tư và chi thường xuyên; Tình trạng lãng phí, thất thoát chưa được giải quyết; Tình trạng nợ xây dựng cơ bản và ứng trước đầu tư lớn, gây áp lực đối với điều hành và cân đối NSNN; Hiệu quả kinh tế – xã hội của đầu tư công còn thấp; Sự sút giảm tỷ trọng đầu tư công chưa đi cùng với gia tăng tương xứng đầu tư tư nhân; Đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng giảm tốc và chưa thật sự bền vững.

– Tái cơ cấu DN, với nòng cốt là cổ phần hóa DNNN tiến triển chậm và thiếu thực chất, chưa tạo ra các thay đổi đủ lớn về phạm vi hoạt động, chất lượng quản trị cũng như hiệu quả kinh doanh của DNNN. Do vậy, tái cơ cấu DNNN chưa góp phần làm giảm đáng kể vai trò trực tiếp kinh doanh của Nhà nước.

Giá trị vốn nhà nước thu về từ tái cơ cấu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn nhà nước đầu tư tại các DN, do vậy chưa đạt mục tiêu phân bổ lại nguồn lực trong nền kinh tế nói chung. Hiệu quả của khu vực DNNN chậm được cải thiện, phát sinh nhiều vụ tiêu cực và thất thoát lớn. Khu vực DN tư nhân phát triển chậm, thiếu liên kết, tập trung trong khu vực phi chính thức với công nghệ lạc hậu. Tăng trưởng của khu vực FDI tập trung ở các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều lao động, hạn chế trong chuyển giao công nghệ.

– Tái cơ cấu thị trường tài chính, các TCTD còn nhiều tồn tại. Sự thay đổi về cơ cấu thị trường diễn ra chậm, vai trò của thị trường vốn chưa đủ lớn, nhiều yếu kém có tính hệ thống và dài hạn của các TCTD chưa được giải quyết cơ bản; chưa xử lý dứt điểm một số ngân hàng thương mại yếu kém, đã có dấu hiệu phá sản.

Vai trò của thị trường vốn như là một kênh huy động (và cả phân bổ) nguồn lực tài chính chính thức cho đầu tư phát triển chưa thực sự rõ nét. Nợ xấu cao, khiến lãi suất cho vay tăng, tiềm ẩn rủi ro đối với sự an toàn của các TCTD. Các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc tăng vốn điều lệ và nâng cao năng lực tài chính, do việc tăng vốn chủ yếu từ nguồn cổ tức.

– Tái cơ cấu các ngành kinh tế chưa tạo ra được sự thay đổi mang tính tích cực trong cơ cấu kinh tế giữa các ngành, nội ngành.

– Tái cơ cấu nông nghiệp tiến triển chậm so với sức ép hội nhập và biến đổi khí hậu. Tích tụ đất nông nghiệp còn nhiều ách tắc. Sản xuất nông nghiệp còn dựa chủ yếu vào kinh tế hộ nhỏ lẻ, phân tán và lạc hậu; Giá trị gia tăng, năng suất lao động của ngành Nông nghiệp thấp.

– Tái cơ cấu công nghiệp chưa tăng được giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của Ngành. Đổi mới công nghệ và phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao còn chậm; tỷ lệ nội địa hóa của DN FDI thấp. Tỷ trọng công nghiệp chế tạo chỉ đạt khoảng 15% GDP năm 2015, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.

– Tái cơ cấu các ngành dịch vụ được triển khai chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học, công nghệ cao. Hệ thống phân phối còn nhiều bất cập, chi phí trung gian lớn, chưa kết nối thông suốt, hiệu quả và chưa bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ. Phát triển du lịch còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế.

– Tái cơ cấu kinh tế vùng chưa đi vào thực chất, chưa tuân thủ các nguyên tắc thị trường trong liên kết vùng. Thiếu thể chế tạo liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng để phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế. Một số vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế chưa phát huy được vai trò đầu tàu cho tăng trưởng. Các địa phương cạnh tranh nhau trong thu hút đầu tư, nhất là FDI; kinh tế của các địa phương trong vùng, giữa các vùng với nhau bị chia cắt, phân tán, giới hạn bởi địa giới hành chính; làm giảm, thậm chí triệt tiêu các lợi thế cạnh tranh.

– Quá trình đổi mới thể chế kinh tế vẫn còn nhiều thách thức. Những vấn đề cơ bản của thể chế điều chỉnh quan hệ nội bộ các cơ quan nhà nước, gia tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý kinh tế chậm được cải thiện. Hệ thống hành chính công chưa theo nguyên tắc của hệ thống chức nghiệp thực tài.

Nguyên nhân của những hạn chế

Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, tập  trung ở một số nội dung sau:

Một là, chậm đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển: Quá trình đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế, nhất là thể chế thị trường các yếu tố sản xuất vẫn còn chậm; Một phần đáng kể nguồn lực xã hội, nhất là trong khu vực kinh tế nhà nước vẫn được phân bổ chủ yếu theo cơ chế hành chính xin – cho; Chậm đổi mới quản trị nhà nước; Năng lực, hiệu lực và trách nhiệm giải trình trong quản lý nhà nước về kinh tế còn thấp.

Hai là, tổ chức thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế còn phân tán và không đồng bộ. Quá trình tổ chức thực hiện tái cơ cấu kinh tế còn thiếu hiệu lực, phân tán, chưa có sự điều phối và giám sát đủ mạnh từ Trung ương đến địa phương; Một số lĩnh vực chưa có các mục tiêu lượng hóa cụ thể để thực hiện và giám sát.

Ba là, tái cơ cấu nền kinh tế chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập sâu rộng chưa đồng bộ với tái cơ cấu nền kinh tế trong nước, chưa tạo ra được những sức ép đủ lớn để đẩy nhanh tái cơ cấu nền kinh tế, do vậy hạn chế khả năng của các DN trong tận dụng các cơ hội từ hội nhập; Đồng thời, chưa bảo đảm được cạnh tranh công bằng giữa DN trong nước và các nhà sản xuất và đầu tư nước ngoài ngay trên thị trường nội địa.

Bốn là, năng lực bộ máy hành chính quản lý nhà nước về kinh tế còn hạn chế, không phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập. Cách thức hoạch định chính sách còn yếu so với đòi hỏi cao của tiến trình tự do hoá thị trường với phân cấp, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu tăng trưởng nhanh, bền vững.

Năm là, vai trò giám sát các tổ chức chính trị – xã hội và người dân đối với tái cơ cấu nền kinh tế chưa được phát huy đầy đủ. Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình chưa cao. Việc tổ chức thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế còn tập trung tại các cơ quan quản lý nhà nước, trong khi tái cơ cấu nền kinh tế là một nhiệm vụ lớn và bao trùm, đòi hỏi sự chỉ đạo và giám sát mạnh mẽ của toàn bộ hệ thống chính trị – xã hội.

Giai đoạn 2017 – 2020, cần thay đổi mạnh mẽ về quan điểm

Tái cơ cấu nền kinh tế là một nội dung lớn, quan trọng và cấp bách hiện nay, nhất là khi Việt Nam đang nỗ lực đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh, bền vững. Đây cũng là vấn đề khó, phức tạp, phạm vi rộng và liên quan đến nhiều khía cạnh… Do đó, giai đoạn 2017 – 2020, quan điểm tái cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam cần có những thay đổi mạnh mẽ và cần chú trọng các điểm sau:

Một là, tái cơ cấu nền kinh tế cần gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh. Đồng thời, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh và bền vững trên cơ sở nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc, tận dụng tối đa tiềm năng, lợi thế của xu thế hội nhập, của từng ngành, địa phương và toàn nền kinh tế.

Hai là, đẩy mạnh đổi mới toàn diện phương thức quản lý nhà nước về kinh tế, cải cách thể chế kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, xây dựng Nhà nước liêm chính và kiến tạo, đồng thời, tăng cường kỷ cương, kỷ luật và hiệu lực thực thi pháp luật. Từng bước giảm thiểu vai trò kinh doanh, đầu tư trực tiếp của Nhà nước, để thị trường có vai trò ngày càng quan trọng hơn trong huy động và phân bổ nguồn lực xã hội.

Ba là, tập trung tái cơ cấu và hiện đại hóa các ngành kinh tế và vùng kinh tế, nâng cao năng suất và giá trị gia tăng của từng ngành và của nền kinh tế. Áp dụng chiến lược tái cơ cấu nền kinh tế có trọng điểm, ưu tiên dành nguồn lực quản lý và đầu tư cho việc phát triển các ngành kinh tế và địa bàn kinh tế ưu tiên.

Bốn là, tiếp tục mở cửa, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, trọng tâm là kinh tế quốc tế; lồng ghép việc thực hiện các cam kết quốc tế với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội trong nước.

Theo đó, nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế trong giai đoạn 2017 – 2020 cần tập trung vào 5 nhóm nhiệm vụ trọng tâm sau:

Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân và thu hút hợp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng, thuận lợi, giảm rào cản kinh doanh, giảm chi phí và rủi ro thể chế đối với khu vực DN, nhất là DN tư nhân trong nước.

Thứ hai, tái cơ cấu khu vực kinh tế nhà nước, tập trung tái cơ cấu DNNN, tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu NSNN và khu vực dịch vụ sự nghiệp công.

Thứ ba, tái cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm là các TCTD và thị trường chứng khoán. Xử lý nhanh và dứt điểm nợ xấu, sắp xếp và cơ cấu lại  các ngân hàng yếu kém bằng các giải pháp thích hợp trên nguyên tắc không gây thiệt hại cho người gửi tiền và đảm bảo ổn định hệ thống. Nâng cao quy mô và hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu chính phủ, thị trường trái phiếu DN và thị trường bảo hiểm.

Thứ tư, hiện đại hóa công tác quy hoạch ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Ưu tiên phát triển các ngành trọng điểm, có lợi thế cạnh tranh. Ưu tiên dành nguồn lực nhà nước, hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế và địa bàn kinh tế ưu tiên.

Thứ năm, tái cơ cấu các thị trường nhân tố sản xuất quan trọng, bao gồm: thị trường quyền sử dụng đất, thị trường lao động và thị trường khoa học công nghệ. Hình thành đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường, làm cơ sở phân bổ nguồn lực hiệu quả, phù hợp với các mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Tài liệu tham khảo:

1. Đề án Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 – 2020 kèm theo Tờ trình số 459/TTr-CP ngày của Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa XIV;

2. Niên giám thống kê (2011- 2016), Tổng cục Thống kê;

3. Tổng cục Thống kê (2016), Tình hình kinh tế – xã hội năm 2016, tháng 12/2016;

4. World Bank (2016), Báo cáo Phát triển Thế giới, 2016.

Bài đăng trên tạp chí Tài chính kỳ 1+2 tháng 1/2017

theo tapchitaichinh.vn

Copyright © Bảo Hiểm Bảo Việt.