Ngày 22/08/2013, Chính phủ ban hành Nghị định 95/2013/NĐ-CP, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Lao động, Bảo hiểm xã hội (BHXH) và đưa người lao động Việt Nam đi nước ngoài
Với các hành vi vi phạm Luật BHXH
Điều 26, Nghị định 95/2013/ NĐ-CP quy định rõ-Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành đối với người lao động có hành vi thoả thuận với người sử dụng lao động không tham gia BHXH bắt buộc, Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN)
-Phạt tiền với mức từ 12 đến 15% tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc, BHTN tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75 triệu đồng với ngươi sử dụng lao động có một trong các hành vi: chậm đóng BHXH, BHTN; Đóng BHXH, BHTN không đúng mức quy định; Đóng BHXH, BHTN không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, BHTN.
-Phạt tiền với mức từ 18 đến 20% tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc, BHTN tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75 triệu đồng với người sử dụng lao động không đóng BHXH bắt buộc, BHTN cho toàn bộ người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, BHTN.
– Buộc truy nộp số tiền BHXH bắt buộc, BHTN chưa đóng, chậm đóng đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 26; Buộc đóng số tiền lãi của số tiền BHXH bắt buộc, BHTN chưa đóng, chậm đống theo mức lãi suất của hoạt động đầu tư từ Quỹ BHXH trong năm với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 26.
Điều 27 Nghị định 95/2013/ NĐ-CP quy định:
Với các hành vi vi phạm về quy định lập hồ sơ để hưởng chế độ BHXH sẽ bị phạt theo các mức
– Phạt tiền từ 500.000 đến 1.000.000 đồng đối với người lao động có hành vi kê khai không đúng sự thật hoặc sửa chữa, tẩy xoá những nội dung có liên quan đến việc hưởng BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHTN.
– Phạt tiền từ 500.000 đến 1.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi giả mạo hồ sơ BHXH để hưởng chế độ BHXH.
– Các cá nhân tổ chức vi phạm phải nộp lại cho tổ chức BHXH số tiền BHXH đã nhận khi thực hiện hành vi vi phạm.
Điều 28 Nghị định 95/2013/ NĐ-CP quy định với các hành vi vi phạm các quy định khác sẽ bị phạt:
– Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đến 800.000 đồng đối với người sử dụng lao động có các hành vi: không cung cấp tài liệu, thông tin về BHXH bắt buộc, BHTN theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; không cung cấp thông tin về đóng BHXH, BHTN của người lao động khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu.
– Phạt tiền từ 200.000 đến 500.000 đồng khi vi phạm với mỗi người lao động, người sử dụng lao động khi có các hành vi: không trả chế độ ốm đau, thai sản, trợ cấp, dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau ốm đau, thai sản trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ của người lao động; không trả chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định chi trả của cơ quan BHXH; làm mất mát hư hỏng, sửa chữa, tẩy xoá sổ BHXH.
– Phạt tiền từ 500.000 đến 1.000.000 đồng khi vi phạm với mỗi người lao động, người sử dụng lao động có các hành vi: không lập hồ sơ tham gia BHXH bắt buộc, BHTN cho người lao động kể từ thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kí kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tuyển dụng; không lập hồ sơ hoặc văn bản đề nghị cơ quan BHXH giải quyết chế độ hưu trí trước 30 ngày, tính đến ngày người lao động đủ điều kiện nghỉ việc hưởng hưu trí; giải quyết chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ của người lao động; không giới thiệu người lao động đi giám định suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng Giám định y khoa để giải quyết chế độ BHXH cho người lao động.
– Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi sử dụng Quỹ BHXH sai mục đích.
– Buộc trả đủ chế độ BHXH cho người lao động đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản 2 Điều này. Buộc nộp lại lợi nhuận thu được từ việc sử dụng Quỹ BHXH sai mục đích với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 04 Điều này.
Trong lĩnh vực Lao động
Nếu người sử dụng lao động có một trong các hành vi như: trả lương không đúng hạn, trả lương thấp hơn mức quy định tại thang lương, bảng lương đã gửi cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp huyện; trả lương làm thêm giờ, làm việc ban đêm cho người lao động thấp hơn mức quy định; khấu trừ tiền lương của người lao động trái quy, trả không đủ tiền lương ngừng việc cho người lao động… sẽ bị xử phạt từ mức 5.000.000 – 10.000.000 triệu đồng đến 40.000.000 – 50.000.000 triệu đồng. Người sử dụng lao động trả lương cho người lao động thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định bị phạt từ 20-30 triệu đồng đến 50-75 triệu đồng. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn về vị trí việc làm; phạt tiền từ 45.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với hành vi hoạt động dịch vụ việc làm mà không có giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm do cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc sử dụng Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm hết hạn. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi: Yêu cầu người lao động thử việc quá một lần; thử việc quá thời gian quy định; trả lương cho người lao động trong thời gian thử việc thấp hơn 85% mước lương của công việc đó. Người sử dụng lao động bị buộc phải trả đủ tiền lương cho người lao động, đồng thời phải trả thêm khoản tiền lãi của số tiền lương chậm trả cho người lao động tính theo lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương.
Trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Sẽ phạt tiền từ 5.000.000 đến 10.000.000 đồng đối với doanh nghiệp dịch vụ hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có một trong các hành vi sau: Không công bố giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc nước ngoài theo quy định; không niêm yết công khai quyết định của doanh nghiệp dịch vụ giao nhiệm vụ cho chi nhánh và bản sao Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài của doanh nghiệp dịch vụ tại trụ sở chi nhánh; sử dụng người lãnh đạo điều hành hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc nước ngoài không có trình độ đại học từ cử nhân trở lên; không báo cáo việc thay đổi người lãnh đạo đièu hành hoạt động của trung tâm đưa người Việt Nam đi lao động nước ngoài theo quy định.
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 10/10/2013./.