Quyền lợi hưởng chế độ ốm đau và thai sản ở Việt Nam được đánh giá cao so với các nước trong khu vực, thậm chí cao nhất trên thế giới.
Nếu chỉ căn cứ vào tỷ lệ BHXH mà cho rằng chi phí BHXH cao, dẫn đến tăng chi phí doanh nghiệp là chưa chính xác, bởi chi phí cao hay thấp được quyết định bởi mức đóng được xác định bằng tỷ lệ đóng BHXH và nền tiền lương làm căn cứ đóng BHXH.
Thực tế ở Việt Nam nền tiền lương đóng chủ yếu dựa trên mức lương cơ bản và có khoảng cách khá xa với mức tiền lương và thu nhập thực tế của người lao động. Tỷ lệ đóng cao nhưng nền đóng thấp thì mức đóng cũng không cao.
Ngoài ra, so sánh với thiết kế các chế độ và quyền lợi mà người lao động và thân nhân người lao động được hưởng thì tỷ lệ đóng BHXH ở Việt Nam cao, theo đó các quyền lợi mà người lao động được hưởng cao, cụ thể: Quyền lợi hưởng chế độ ốm đau và thai sản ở Việt Nam được đánh giá cao so với các nước trong khu vực, thậm chí cao nhất trên thế giới.
Tỷ lệ lương hưu tối đa của Việt Nam là 75%, tỷ lệ tích luỹ đối với nam là 2,5% và đối với nữ là 3% (kể từ ngày 1/1/2018 thì tỷ lệ tích luỹ có điều chỉnh giảm dần xuống còn 2,14% đối với nam và 2,5% đối với nữ); trong khi đó tỷ lệ hưởng lương hưu của các nước chỉ khoảng từ 35% đến 50%, tỷ lệ tích luỹ bình quân trên thế giới là 1,7% (đặc biệt Trung Quốc, Hàn Quốc là 1%).
Như vậy, từ những so sánh nêu trên cho thấy rất khó để đánh giá mức đóng BHXH của Việt Nam là cao hay thấy so với các quốc gia khác.
Việc đánh giá tỷ lệ đóng BHXH cần được xem xét trong việc xác định mô hình BHXH tại mỗi nước, mối quan hệ giữa mức đóng với quyền lợi hưởng các chế độ, các yếu tố kinh tế vĩ mô như sự phát triển kinh tế, GDP bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế, sự phát triển của thị trường lao động, chi phí lao động./.