Theo Thông tư số 02/2017/TT-BYT của Bộ Y tế, từ ngày 1/6/2017, các cơ sở y tế công lập sẽ chính thức áp dụng giá viện phí mới cho hơn 1.900 dịch vụ y tế đối với nhóm đối tượng không có thẻ BHYT và một số dịch vụ khám chữa bệnh (KCB) không thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT.
Với việc kết cấu thêm chi phí tiền lương, phụ cấp đặc thù của nhân viên y tế vào giá dịch vụ y tế, đồng thời điều chỉnh chi phí 3 yếu tố trực tiếp, nhiều dịch vụ y tế có mức tăng 2-3 lần giá cũ và sẽ do người bệnh trả 100%.
Đâu là căn cứ để xác định mức tăng này? Tác động của điều chỉnh giá dịch vụ y tế này sẽ tác động đến người bệnh ra sao? Xung quanh vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Lê Văn Phúc- Phó trưởng ban, phụ trách Ban Thực hiện chính sách BHYT (BHXH Việt Nam).
Ông đánh giá thế nào về tác động của việc tăng giá dịch vụ y tế trong Thông tư 02 đối với người không có thẻ BHYT?
Theo Thông tư 02 của Bộ Y tế, có 3 nhóm dịch vụ dành cho người chưa có thẻ BHYT được điều chỉnh khung giá tối đa. Bao gồm: giá dịch vụ khám bệnh, kiểm tra sức khoẻ; giá dịch vụ ngày giường điều trị; giá dịch vụ kỹ thuật và xét nghiệm dành cho các hạng BV.
Trong 3 nhóm dịch vụ này, cả hai nhóm dịch vụ khám bệnh và dịch vụ ngày giường điều trị đều có mức tăng giá rất mạnh, cao gấp 2- 4 lần so với giá hiện tại. Cụ thể, tiền khám bệnh đã tăng gấp 4 lần ở phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế xã; tăng 2 lần ở bệnh viện hạng 1 và hạng 2.
Theo quy định mới, tiền khám tối đa ở bệnh viện hạng đặc biệt và bệnh viện hạng 1 là 39.000 đồng/lượt; hạng 2 là 35.000 đồng/lượt; hạng 3 là 31.000 đồng/lượt và bệnh viện hạng 4/Phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế xã là 29.000 đồng/lượt.
Tương tự, giá tối đa dịch vụ ngày điều trị hồi sức tích cực tại bệnh viện hạng đặc biệt cũng tăng gấp đôi lên 677.100 đồng; bệnh viên hạng 1 là 632.200 đồng; bệnh viện hạng 2 là 568.900 đồng. Đối với ngày giường bệnh hồi sức cấp cứu, chống độc, các mức tương ứng là: 362.800 đồng/ngày, 335.900 đồng/ngày, 279.100 đồng/ngày; tại bệnh viện hạng 3 là 245.700 đồng/ngày và bệnh viện hạng 4 là 226.000 đồng/ngày…
Mức tăng này là rất đáng kể khi người bệnh phải điều trị nội trú, điều trị dài ngày. Tuy nhiên, tác động mạnh nhất đến người bệnh chưa có thẻ BHYT phải là nhóm giá dịch vụ kỹ thuật và xét nghiệm dành cho các hạng bệnh viện bất kể người bệnh điều trị ngoại trú hay nội trú, điều trị ít ngày hay dài ngày.
Với 1.916 dịch vụ được điều chỉnh tăng giá trong Thông tư này, mặc dù mức điều chỉnh mức tăng chủ yếu ở khoảng số 20- 30%, một số ít có mức tăng gấp đôi so với mức giá hiện hành, nhưng số tiền tuyệt đối của nhiều dịch vụ lên tới hàng trăm nghìn; thậm chí, đến cả triệu đồng cho một lần chỉ định, do đơn giá dịch vụ kỹ thuật vốn đã có kết cấu chi phí cao!
Ví dụ như chụp X quang động mạch vành hoặc thông tim, chụp buồng tim dưới DSA tăng từ 5,1 triệu đồng lên gần 5,8 triệu đồng; chụp và can thiệp tim mạch dưới DSA từ 6 triệu lên gần 6,7 triệu đồng; nội soi ổ bụng từ 575.000 đồng tăng lên 793.000 đồng, nội soi thực quản-dạ dày-tá tràng có sinh thiết tăng từ 220.000 đồng lên 385.000 đồng…
Theo Thông tư 02, chỉ có nhóm giá khám bệnh, ngày giường điều trị là khác nhau theo hạng bệnh viện, còn lại các các dịch vụ kỹ thuật, xét nghiệm đều thực hiện thống nhất một mức giá tại tất cả các bệnh viện trên toàn quốc.
Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC, quy định thống nhất giá dịch vụ khám chữa bệnh BHYT giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc cũng đang thực hiện theo nguyên tắc này.
Điều khác nhau cơ bản giữa người có thẻ BHYT và không có thẻ BHYT là bệnh nhân BHYT đã được quỹ BHYT chi trả từ 80 – 100% chi phí, tùy theo từng đối tượng thụ hưởng. Còn bệnh nhân khám dịch vụ sẽ phải chi trả 100% toàn bộ chi phí khám chữa bệnh.
Như vậy khoản tiền người khám chữa bệnh không có BHYT phải trả thêm so với mức giá hiện hành sẽ là con số không nhỏ.
Đặc biệt, những bệnh nhân cần sử dụng các dịch vụ kỹ thuật cao, thì mức chi 100% từ tiền túi rất lớn, ví dụ như chụp PET/CT chi phí tối đa đã lên tới hơn 20 triệu đồng; chi phí PET/CT mô phỏng xạ trị gần 21 triệu đồng…
Với tác động lớn đến người dân khám chữa bệnh không có BHYT, theo ông, căn cứ để xây dựng mức tăng giá dịch vụ y tế này đã thỏa đáng?
Thực tế thì lộ trình tăng giá này đã có độ “trễ” rất nhiều theo Luật BHYT, bởi sau 1 năm giá dịch vụ y tế dành cho khoảng gần 20% dân số chưa có thẻ BHYT này mới đuổi kịp giá của những người đang khám chữa bệnh BHYT.
Hiện nay, người chưa tham gia BHYT khi đi khám chữa bệnh vẫn đang trả mức giá thấp hơn nhóm dân số có thẻ BHYT, bởi giá dịch vụ y tế dành cho người chưa có thẻ BHYT chỉ mới kết cấu 3 yếu tố chi phí trực tiếp: chi phí thuốc, dịch truyền, hoá chất, vật tư tiêu hao, vật tư thay thế phục vụ KCB; chi phí về điện, nước, nhiên liệu, xử lý chất thải, bảo vệ môi trường; Chi phí duy tu, bảo dưỡng thiết bị, mua thay thế công cụ, dụng cụ.
Chưa kể, giá các dịch vụ y tế này vẫn đang được quy định tại các Thông tư có mức giá khá “lạc hậu” so với thời giá hiện nay như Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BYT-BTC-BLĐTB&XH ban hành từ năm 2006, Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-BTC năm 2012.
Trong khi đó, trong năm vừa qua, quỹ BHYT đã chi trả phần lớn chi phí thay cho những người khám chữa bệnh BHYT mức giá dịch vụ y tế kết cấu cả tiền lương, phụ cấp theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC, quy định thống nhất giá dịch vụ khám chữa bệnh BHYT giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc.
Tại sao lại có độ trễ về thời gian cho nhóm đối tượng này? Đó là vì Chính phủ muốn tạo thời gian chuyển tiếp cần thiết cho những người chưa tham gia BHYT thực hiện trách nhiệm của mình trong chủ trương BHYT toàn dân.
Giá dịch vụ y tế hiện nay dù được điều chỉnh thì cũng mới kết cấu 4/7 yếu tố chi phí. Lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế vẫn đang được thực hiện, giá dịch vụ y tế sẽ còn tiếp tục tăng theo lộ trình.
Song song với việc thay đổi cơ chế tài chính y tế, Chính phủ sẽ chuyển sang đầu tư trực tiếp cho người dân thông qua hỗ trợ tham gia BHYT thay vì rót ngân sách vào các bệnh viên.
Để đảm bảo quyền lợi về tài chính của mình trong chăm sóc sức khỏe, người dân cần và nên tham gia BHYT. Đó cũng là quy định của Luật BHYT đã có hiệu lực từ hơn 2 năm nay.
Vậy theo ông, việc tăng giá dịch vụ y tế cho người khám chữa bệnh dịch vụ lần này có là một động lực để tăng tỷ lệ người tham gia BHYT, bởi giá dịch vụ y tế cũng được coi là một “chế tài mềm” cho quy định bắt buộc tham gia BHYT của Luật BHYT 2014?
Như tôi đã nói, với Thông tư 02, chúng ta sẽ tạo sự công bằng hơn trong việc thực hiện chính sách chung khi giá dịch vụ y tế tương đương nhau khi cung cấp cho cả người có thẻ BHYT và không có thẻ BHYT.
Việc tăng giá chắc chắn có tác động đến ý thức tham gia BHYT của người dân, càng rõ hơn tầm quan trọng và ý nghĩa của BHYT.
Tuy nhiên, chúng ta không nên và không thể trông chờ việc tăng giá dịch vụ y tế là yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy tham gia BHYT của người dân.
Đúng là giá chính là một “chế tài mềm”, hiệu quả của chế tài này sẽ phát huy tốt khi chúng ta tính đủ 7/7 yếu tố chi phí vào giá dịch vụ y tế. Tuy nhiên chủ trương này sẽ phải thực hiện theo lộ trình.
Theo thống kê của BHXH các tỉnh, thành phố, hiện nay tỷ lệ người có thẻ BHYT đi KCB tại cơ sở y tế tuyến xã, tuyến huyện chiếm tới 95%.
Điều đó có nghĩa là kể cả với mức giá cũ nhóm người không có thẻ BHYT cũng chủ yếu đi KCB tại các BV tuyến tỉnh trở lên trong trường hợp có nhu cầu KCB thực sự. Vào thời điểm hiện nay, chế tài về giá vẫn chưa đủ mạnh mẽ để tạo bước “đột biến” trong tỷ lệ tham gia BHYT, mà phải có những giải pháp khác như tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHYT, hỗ trợ cho người dân mua BHYT, nâng cao chất lượng KCB, cung cấp dịch vụ y tế…
theo tinnhanhchungkhoan.vn