Theo đó, để áp dụng thống nhất các quy định của Luật BHXH và pháp luật liên quan đến lĩnh vực BHXH, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc TANDTC triển khai quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình một số nội dung về: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về BHXH giữa người lao động, tập thể lao động với người sử dụng lao động; Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về BHXH giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan BHXH; Về quyền của cơ quan BHXH đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH của người sử dụng lao động (trốn đóng BHXH, chậm đóng tiền BHXH).
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp về BHXH giữa người lao động, tập thể lao động với người sử dụng lao động:
Theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 của Bộ luật Lao động năm 2012 thì: Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động. Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động. Như vậy, tranh chấp lao động bao gồm 02 loại: Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động; Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động và chủ thể của tranh chấp lao động phải là các bên trong quan hệ lao động.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 200, Điểm d Khoản 1 Điều 201, Điểm c Khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Lao động năm 2012, Điều 31 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì tranh chấp về BHXH giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động là tranh chấp lao động và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Lao động được tư vấn về Bảo hiểm Thất nghiệp ở Trung tâm Giới thiệu Việc làm tỉnh (Ảnh Nguyên Hưng). |
Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 205 của Bộ Luật Lao động năm 2012 thì:
“1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phải tiến hành giải quyết tranh chấp lao động…
3. “Trong trường hợp các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.”
Như vậy, khi thụ lý, giải quyết các yêu cầu về BHXH, các Tòa án cần lưu ý:
– Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết tranh chấp mà các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc quá thời hạn luật quy định mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp tập thể về quyền. Trường hợp này, Tòa án thụ lý giải quyết và xác định đây là vụ án lao động.
– Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết tranh chấp mà các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và khởi kiện đối với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Tòa án thụ lý giải quyết và xác định đây là vụ án hành chính.
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp về BHXH giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan BHXH: Theo quy định tại Khoản 8 Điều 18 và Khoản 2 Điều 20 của Luật BHXH thì người lao động và người sử dụng lao động có quyền khiếu nại, tố cáo và khởi kiện về BHXH theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 118 và Điều 119 của Luật BHXH thì người lao động và người sử dụng lao động có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của Luật này và Luật tố tụng hành chính đối với quyết định, hành vi hành chính của tổ chức BHXH khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật về BHXH, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi có người khởi kiện đối với quyết định, hành vi hành chính của cơ quan BHXH thì Tòa án thụ lý vụ án và xác định là vụ án hành chính.
(Ảnh minh họa) |
Việc xác định thẩm quyền của Tòa án đối với vụ án hành chính thực hiện theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 của Luật tố tụng hành chính năm 2010; kể từ ngày 01 đến 7/2016 (ngày Luật tố tụng hành chính năm 2015 có hiệu lực pháp luật) thực hiện theo quy định tại Điều 31 và Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Về quyền của cơ quan BHXH đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH của người sử dụng lao động (trốn đóng BHXH, chậm đóng tiền BHXH):
Theo quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 2 của Luật BHXH thì người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia BHXH bắt buộc. Các hành vi trốn đóng BHXH bắt buộc, BH thất nghiệp; chậm đóng tiền BHXH, BH thất nghiệp; chiếm dụng tiền đóng, hưởng BHXH, BH thất nghiệp là những hành vi bị nghiêm cấm quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 17 của Luật BHXH.
Theo quy định tại Khoản 9 Điều 22 của Luật BHXH thì cơ quan BHXH có quyền: Xử lý vi phạm pháp luật hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, BH thất nghiệp, BHYT.
Như vậy, kể từ ngày Luật BHXH có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2016), Tòa án không thụ lý đơn khởi kiện của Cơ quan BHXH đòi tiền BHXH đối với người sử dụng lao động. Đối với những vụ án đã thụ lý trước ngày 01/01/2016 mà chưa giải quyết thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện và hướng dẫn người khởi kiện thực hiện các quy định của Bộ luật Lao động, Luật BHXH và Luật xử lý vi phạm hành chính.
theo baongheanh.vn